CANH THỨC MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
Chủ đề: “Maranatha! Lạy Chúa Giêsu Xin Ngự Đến” (Kh.20,20)
MỞ ĐẦU
Lời dẫn tổng quát: (Bài nhạc dạo số 01)
Kính thưa cộng đồng dân Chúa,
Hoà chung với niềm vui của toàn thể nhân
loại trên khắp hoàn cầu, người người nô nức hân hoan đón mừng kỷ niệm lễ
Chúa Giáng Sinh – một biến cố cách đây hơn hai ngàn năm. Đây là một
biến cố vô cùng trọng đại, có một không hai trong lịch sử loài người, và
là một niềm vui thật lớn lao cho con người, nhất là người Kitô hữu
chúng ta. Khắp nơi trên mặt địa cầu chuẩn bị và đón mừng lễ Giáng sinh
ngày càng long trọng, dù họ là người Công giáo hay không. Tất cả đều như
chung một niềm vui đại đồng.
Vì thế, mừng lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng
ta không chỉ mừng kỷ niệm Sinh Nhật của Chúa Giêsu, nhưng còn là dịp để
chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu tuyệt vời và cao cả, đó là mầu nhiệm “Con Thiên Chúa xuống Thế làm người và ở giữa chúng ta”.
Chúng ta đang sống những ngày cuối cùng
của năm 2012. Hướng về Giáo hội hoàn vũ, và cùng với Giáo hội địa phương
chuẩn bị tâm hồn cho ngày kỷ niệm 100 năm Tòa Thánh thiết lập Giáo phận
Lạng Sơn – Cao Bằng, mà khởi đi từ Phủ doãn tông tòa Lạng Sơn – Cao
Bằng.
Đây chính là thời điểm để chúng ta cùng
nhìn lại hành trình Nhập thể và Nhập thế của Chúa Giêsu Kitô qua Hội
Thánh của Ngài tại giáo phận truyền giáo này. Lịch sử của Giáo phận đã
ghi lại những hành trình truyền giáo và sống giá trị đức tin trải qua
những thăng trầm của lịch sử Giáo hội Công giáo tại đây, chính sự thăng
trầm của lịch sử giáo phận mà chúng ta càng cảm nhận rõ nét hơn về tình
yêu của Ngôi Lời Nhập thể trong hang đá đơn hèn xưa kia tại Belem. Chính
tình yêu thương đến cùng của Thiên Chúa qua Ngôi Lời Nhập Thể, mà Giáo
hội Chúa Giêsu luôn hiện diện đồng hành với miền đất biên giới phía bắc
này.
Theo gương Đức Maria, chúng ta cũng được
mời gọi lên đường đến với mọi người anh chị em nơi miền sơn cước này,
trên quê hương đất nước này, và loan báo Tin Mừng cho họ.
Thật vậy, loan báo Tin Mừng là ân huệ và
sứ mạng đặc biệt của Giáo hội, một Giáo hội phát xuất từ tình yêu của
Thiên Chúa Ba Ngôi, được diễn tả qua việc Chúa Cha sai con xuống trần
gian (Ga 3,16) và việc Chúa Cha cử Thánh Thần đến với Giáo Hội, để Giáo
hội tiếp tục sứ mạng của Chúa Con. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại và
sứ vụ, Giáo hội luôn cất lên lời cầu nguyện xin tha thiết: “Maranatha! Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh.20,20). Đó cũng là tâm tình của mỗi chúng ta, khi hòa mình vào bầu khí của đêm nay – Đêm Thánh Vô Cùng.
Hôm nay trong niềm vui ấy, Cộng đoàn Dân
Chúa chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội Công Giáo hân hoan cử hành đại
lễ mừng Chúa Giáng sinh. Để chuẩn bị đi vào mầu nhiệm thánh trên bàn
thờ, chúng ta cùng tham dự phần Canh thức diễn nguyện qua Hoạt cảnh
trình bày tổng quát lịch sử ơn cứu độ từ khi Chúa tạo thành loài người
đến khi Con Chúa giáng sinh cứu chuộc.
Kính mời cộng đoàn, chúng ta cùng nhau
sống lại hoàn cảnh lịch sử cứu độ, đó là cả một chương trình vĩ đại của
tình yêu mà Thiên Chúa Cha muốn loan báo cho toàn thể nhân loại qua
người con yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Bài nhạc dạo số 02
MÀN I
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG TRỜI ĐẤT MUÔN VẬT VÀ CON NGƯỜI
Lời dẫn: (Bài nhạc dạo số 03) Từ
thuở rất xa khơi, khi vũ trụ còn còn mông lung, và thế giới chưa được
tạo thành, Thiên Chúa đã cưu mang con người trong cung lòng yêu thương
của Ngài. Ngài dựng nên vũ trụ bao la với muôn ngàn tinh tú, cùng muôn
loài muôn vật cho con người tận hưởng, Thiên Chúa giao cho con người giữ
gìn và làm cho vũ trụ tươi đẹp theo thánh ý của Thiên Chúa. Lời Thiên
Chúa là lời Quyền Năng, Lời Sáng Tạo. Chúa Phán một LỜI, vũ trụ muôn vật
được Tạo Thành.
Chú ý: phần sau đây cần hai người dẫn 1.nữ đọc dẫn 1. nam đọc lời Thiên Chúa phán.
Dẫn: Thiên Chúa Phán:
Thiên Chúa: “ Phải có ánh sáng,”
Dẫn: Liền có ánh sáng. Và Thiên Chúa thấy rằng, ánh sáng tốt đẹp. Người lại phán:
Thiên Chúa: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, có mang hạt giống: Cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống”
Dẫn: Liền có như vậy. Thiên Chúa lại Phán:
Thiên Chúa: “Nước phải sinh ra đầy rẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời”
Dẫn: Liền có như vậy. Thiên Chúa lại phán:
Thiên Chúa: “Đất phải sinh ra các sinh vật tùy theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú”
Dẫn: Liền có như vậy.
Múa cảnh Tạo Dựng: Bài nhạc số 04 bước chân người hái lộc
CON NGƯỜI SA NGÃ PHẠM TỘI
Lời dẫn : Bài nhạc số 05
Đỉnh cao của tạo thành là Thiên Chúa đã dựng nên con người, một tạo
vật được vinh dự mang hình ảnh của Ngài. Đặc biệt, Thiên Chúa dựng nên
con người có nam có nữ, để từ hôm nay, vườn địa đàng sẽ rộn ràng những
vần thơ, chứa chan những cung nhạc ân tình, con người được sống trong
khung trời yêu thương, có hoa thơm ngợp lối. Họ cùng nhịp bước trên
đường đời muôn hướng. sớm hôm vui buồn có nhau, hạnh phúc trong sự viên
mãn trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
Bài nhạc số 06
Nhưng hạnh phúc ấy không được bền lâu,
khi con người sa vào những cám dỗ, ham danh lợi, lạm dụng tự do Thiên
Chúa ban để bất tuân lệnh Ngài, từ đó khước từ tình yêu của Ngài.
* Múa cảnh Adam – Eva bị đuổi khỏi vườn Địa đàng (Bài hát «Vườn Địa Đàng – Trần Hương FMSR - ca sĩ Mai hậu) Bài nhạc số 07
- Dẫn : Bài nhạc số 08
Vậy là con người đã sớm đánh mất ân huệ cao quí là hạnh phúc trọn vẹn
mà Thiên Chúa trao ban. Lịch sử đã bước sang một khúc ngoặt mới đầy cam
go và thử thách, chập chùng nước mắt và đau thương. Con người đang chênh
vênh bên bờ vực thẳm của sự diệt vong ngàn đời. Từ nay, con người phải
đau khổ và phải chết, nguyên nhân lớn nhất chính là từ việc con người đã
ảo tưởng về mình, vì nghĩ rằng: mình có thể tìm được hạnh phúc mà không
cần đến Thiên Chúa, cho rằng mình có thể đạt được tự do bằng cách loại
trừ các sự thật luân lý, và tinh thần trách nhiệm của bản thân.
MÀN II
TRÔNG CHỜ CHÚA ĐẾN
Lời dẫn : Bài nhạc số 09
Sau khi bị Thiên Chúa mời ra khỏi Vườn Địa Đàng, con người ngày càng
đắm chìm trong tội lỗi. Cain giết Abel, án mạng đầu tiên trong dòng lịch
sử cứu độ xảy ra. Tội lỗi ngập tràn khắp mặt đất. Nhưng dòng lịch sử ơn
cứu độ là một dòng lịch sử của tình yêu. Con người phải sống trong cảnh
lưu đầy khổ cực. Chính nơi đây, bên bờ sông Babylon, con người phải nếm
mùi tủi nhục của dân lưu vong. Chính nơi đây, bên bờ sông Babylon, ngày
lại ngày, họ vọng nhìn về hướng thành thánh Sion, than khóc nỉ non. Bên
bờ sông Babylon, cạnh hàng dương liễu, con người ngồi trong bóng tối
than khóc và trông chờ Chúa đến.
A. Cảnh Trông Chờ Chúa Đến.
* Diễn – Múa ( ca khúc Trông đợi) Bài nhạc số 10
Lời dẫn: Sống trong cảnh
tăm tối của lưu đầy, con người bắt đầu khóc thương cho thân phận lưu
vong của chính mình. Họ ngước mặt lên trời cao, mong chờ những giọt mưa
ân sủng tuôn đổ tràn đầy xuống tâm hồn khô cằn, mất hy vọng vào ngày
mai. Như những cánh đồng khô cháy trong mùa hạn hán, con người mong đợi
từng giờ, từng phút, những giọt nước mát lạnh của trời cao tuôn đổ
xuống. Con người mong đợi ngày Thiên Chúa sẽ ra tay cứu độ giải thoát họ
khỏi cảnh tù đầy nô lệ. Trong thất vọng, tiếng than khóc của họ vang
lên tan loãng vào trong bầu trời đen tối của cuộc sống lưu vọng. Tiếng
gọi vang lên chín tầng trời xanh. Tiếng gọi của trời cao hãy đổ sương
xuống.
B. Cảnh Gioan Tẩy Giả loan báo dọn đường Chúa đến.
Lời dẫn: Bài nhạc số 11
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, không nỡ làm ngơ trước những
lời kêu van thống thiết của loài người vô vọng trong tội lụy và sự chết…
nên đã nhiều lần và nhiều cách, Ngài lặp lại LỜI HỨA CỨU ĐỘ CỦA NGÀI,
mà lần lượt qua các Ngôn Sứ được Ngài sai đến chuẩn bị lòng dân. Thế
giới này cần được chạm đến và chữa lành nhờ vẻ đẹp và sự phong phú của
tình yêu Thiên Chúa.
Ông Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ đi tiền
phong dọn đường cho Chúa đến. Cả đời ông là một tiếng kêu: Tiếng kêu
khẩn thiết, Tiếng kêu cấp bách: “Hỡi dân ta, hãy lo sám hối, hãy dọn
sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung
lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải
uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Bài nhạc số 12(mở to và nhỏ dần để kết màn)
MÀN III
TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA
Lời dẫn : Bài nhạc số 13
Ngôi lời Nhập Thể là Tin Mừng trọng đại cho nhân loại. Sứ điệp từ trời
cao cho tâm hồn khiêm tốn đơn sơ. Đó là Đức Maria. Như bao thiếu nữ Do
Thái khác, Maria sốt sắng cầu nguyện, mong Thiên Chúa sớm thực hiện lời
hứa cứu độ dân Người.
Thời gian viên mãn đã đến, cả triều thần
Thiên Quốc chờ đợi giây phút có một không hai trong lịch sử nhân loại.
Thật linh thiêng biết bao, trang trọng biết bao giây phút mà Con Thiên
Chúa đợi chờ Nhập Thể làm người để đi vào lịch sử nhân loại, lúc mà Sứ
Thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ Maria.
* Múa Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria Bài nhạc số 14
Lời dẫn: Bài nhạc số 15 Đức Trinh nữ Maria vừa thưa tiếng “Xin vâng”,
thì cả triều thần thánh trên trời hân hoan, nhân loại chuyển mình trào
dâng một niềm vui khôn tả, ngày hạnh phúc cho nhân loại bao la. Ngôi Hai
Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Mẹ khiêm cung thờ lạy Đấng
Thánh mà Mẹ cũng như muôn dân đang mong đợi.
* Múa Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng Bài nhạc số 16
Lời dẫn: Bài nhạc số 17 Biến
cố Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người nơi cung lòng trinh nữ Maria
đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử ơn Cứu Độ của Thiên Chúa trên
Dân Thánh của Người. Để từ đây, khắp hoàn cầu vang lên lời ca vang chúc
tụng, chan chứa niềm vui và sự háo hức của toàn dân.
* Múa Vui Lên Sion Bài nhạc số 18
MÀN IV
CHÚA GIÁNG SINH
Dẫn: Bài nhạc số 19 Cao
điểm của hành trình lịch sử cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã sai chính
Con Một của Người đến để mặc lấy xác phàm nhân, Ngài đã sinh ra trong
cảnh nghèo hèn nơi thôn dã, giữa màn đêm tối phủ giăng khắp tứ bề không
gian. Khởi đầu cho biến cố Chúa Giáng Sinh, chúng ta đến với lệnh kiểm
tra dân số của Hoàng Đế Xêdarê Augutto.
Lính:… Loa, loa, loa… Nghe
đây nghe đây. Hoàng đế ra sắc chỉ, ban hành lệnh kiểm tra dân số toàn
địa hạt xứ Giu-đê-a, mọi người hãy mau lên đường trở về quê quán để đăng
ký tên tuổi của mình. Ai bất tuân, truyền chiếu luật hình nghiêm trị.
Loa, loa, loa…
Dẫn: Giuse lên đường cùng
với Maria cũng phải lên đường trở về Bêlem, là thành của Đavít để khai
hộ khẩu. Thật đáng ngại, Bêlem tấp nập những người từ khắp nơi đến đó
đăng ký. Đêm đã khuya trời đêm đông tuyết lạnh sương rơi, đoàn người
bước đi trong thầm lặng, gió rít từng cơn, mà hai ông bà vẫn chưa tìm
được chỗ trọ. Maria lại tới ngày mãn nguyệt khai hoa, đường xa, nên vẻ
mệt mỏi và lo âu hiện rõ trên khuân mặt của các ngài.
Bài nhạc số 20:Giuse – Maria đi tìm nhà trọ & Giáng sinh (hai
ông bà đi quanh sân khấu, diễn xuất theo nhạc nền; Giuse tay cầm gậy,
vai đeo bị và đỡ tay Maria đi ra, rồi thư thả đi từ quán nọ tới quán kia
theo bản nhạc, có lúc ngồi xuống mệt nhọc, lau mồ hôi cho Maria)
Kịch bản: Giuse và Maria cất bước nặng nề đi tìm nơi trú ngụ, giữa lúc màn đêm tăm tối và trời giá lạnh. Sân khấu giảm ánh sáng.
Giuse: Maria, em cố lên nào…
Một số người đi lại, cất bước nhanh như mau mau để về nhà mình.
Giuse: (hỏi một người đi đường) Ông vui lòng cho chúng tôi hỏi: ở đây có nhà trọ nào không ạ?
Người đi đường: (phẩy tay và bỏ đi, nói giọng bực tức) Tôi đang bận, đi mà hỏi người khác.
Hai ông bà Giuse và Maria buồn bã, tiếp tục cất bước. Nhạc nền có tiếng hát.
Giuse gõ cửa một nhà trọ, hai ông bà chủ quán ra mở cửa:
Giuse: Chào ông, xin vui lòng cho chúng tôi một chỗ trọ qua đêm nay.
Chủ quán: Ồ, rất tiếc, thưa ông, nhà chúng tôi hết chỗ rồi, ông đi tìm chỗ khác đi.
Giuse: Xin ông vui lòng, vợ tôi đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở.
Bà chủ quán: Chuyện gì vậy?
Chủ quán: Hai ông bà này muốn thuê phòng trọ.
Bà chủ quán: Thế có nhiều tiền không?…. có thai thế kia thì phiền phức lắm.
Giuse: Chúng tôi chỉ còn ít tiền, mong ông bà giúp đỡ.
Bà chủ quán: Thôi, đi chỗ khá đi, đừng làm phiền chúng tôi nữa.
Chủ quán: ngoài đồng kia có cái hang đá bỏ trống đấy, ra đó mà nghỉ tạm.
Giuse và Maria buồn bã cất bước đi.
Đi quanh sân khấu một lát rồi vào hang đá (hậu cảnh sân khấu), nhạc nền.
Bài nhạc số 21: tiếng khóc Hài Nhi chào đời.
Bài nhạc số 22:ca khúc Lời mẹ ru; ca sĩ Thanh hoa.
* Cảnh Thiên thần hát mừng Chúa con ra đời: múa ca khúc: Tiếng hát thiên thần).
Bài nhạc số 23
MỤC ĐỒNG VIẾNG CHÚA HÀI NHI
Dẫn: Bài nhạc số 24 Khi
thành phố Giêrusalem đang chìm trong màn đêm lạnh lẽo, mọi người an giấc
sau ngày vất vả, không ai hay biết chuyện lạ lùng đang xảy ra. Bấy giờ
trong miền đó có những người chăn chiên đang nằm canh giữ đoàn vật ở
ngoài đồng, họ là những người đơn sơ chất phác. Thiên thần Chúa hiện ra,
ánh sáng lan tỏa chung quanh khiến họ hết sức kinh sợ, nhưng các thiên
thần Chúa bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các
ngươi một tin mừng đặc biệt: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu thế đã giáng
sinh cho các ngươi trong thành Đavit, hãy mau tìm đến tôn thờ Người“.
Bài nhạc số 25(Bài hát: Kìa trông huy hoàng – đã cắt ngắn)
Lời dẫn : Bài nhạc số 26 Cùng
với các mục đồng ngày xưa đang trở về bên máng cỏ hôm nay, cộng đoàn
chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ mọn hèn là tâm tình sốt sắng
mến yêu cùng với những lo toan vất vả, nước mắt lẫn mồ hôi, vui buồn
sướng khổ trong cuộc sống truân chuyên hằng ngày. Chúng ta hãy xác tín
rằng, Thiên Chúa tình yêu sẽ đoái nhận và ban xuống muôn ơn cho tát cả
chúng ta, cho toàn thế giới trong đêm trọng đại này.
MÀN IV
KẾT THÚC
Bài nhạc số 27Tất cả các diễn viên và Cộng đoàn hiện diện vui mừng hát bài Tiếng chuông ngân.
Lời dẫn kết thúc phần Canh thức diễn nguyện. Bài nhạc số 28
Trời đất giao hòa. Ngôi Lời đã làm người
và ở giữa chúng ta, để rồi Người sẽ đi hết hành trình cuộc sống trần thế
của Người, và mang theo tất cả những niềm vui, nỗi buồn và những âu lo
trăn trở của một con người giới hạn như chúng ta, để cảm thông với chúng
ta, và nhất là để trở nên nguồn Bình An cho chúng ta.
Từ Bê-lem nhỏ bé thuở nào, nay đã trở nên
vô cùng to lớn, vì chính nơi đây, Mầu Nhiệm Cứu Chuộc đã khởi công, một
Giao Ước mới đã được ký kết giữa dân Thiên Chúa và loài người, mà chính
Ngôi Hai Thiên Chúa lại là Đấng Trung Gian duy nhất để chuyển thông, để
tiếp nhận thân phận yếu hèn của con người, và cuối cùng đưa con người
về với Thiên Chúa là Cha yêu thương trong hạnh phúc viên mãn.
Hòa cùng với niềm vui Mừng Con Chúa Giáng
Sinh Làm người đêm nay. Cũng như Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, mỗi người
chúng ta cũng được mời gọi cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa
trong sứ vụ loan báo tin Mừng này. Giờ đây, chúng ta cùng hân hoan ra đi
gieo hạt giống lời Chúa khắp mọi nơi, đi Gieo mầm tin yêu hạnh phúc
giữa cuộc đời này.
Loan báo Tin Mừng là làm cho Đức Giêsu
được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hóa của dân tộc, trong những
biến chuyển của đất nước. Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria
khác, đón nhận Chúa Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho
thế giới. Giờ đây kính mời cộng đoàn chúng ta cùng hòa mình vào niềm vui
ngày Chúa Giáng Sinh để hát mừng Người.
Bài nhạc số 28: Bật một hồi chuông vang, cộng đoàn vỗ tay vui mừng.
Bài nhạc số 29: Nhạc dạo rộn ràng.
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM
Kính thưa cộng đoàn,
CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu Kitô “là nguồn mạch và cùng đích của đức tin” (Dt 12, 2).
A. TỔNG QUÁT
* KHAI MẠC : Hát “Trời cao”- Tâm tình Mùa Vọng (Ca đoàn Giáo xứ)
* PHẦN 1: SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
+ NHÂN VẬT: Ađam + Eva (G.L.V phụ trách)
Một số con vật, cây cối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… (Do các em Mẫu giáo Tuổi thơ hoá trang – các Dì phụ trách).
+ HÌNH THỨC : Ca vũ cảnh.
+ KHUNG CẢNH : Sân khấu để trống, chuẩn bị điện phối hợp ca cảnh.
+ THỰC HIỆN : Các Dì + G.L.V.
* PHẦN 2: Tổ phụ Abraham, mẫu mực đức tin: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
+ NHÂN VẬT : Giọng nói Thiên Chúa. Abraham, Sara, Isaác. 03 “Người của Thiên Chúa”.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm ba tiểu phẩm sau:
- Chúa gọi Abraham.
- Tiếp đón “Người của Thiên Chúa”
- Sát tế Isaác.
+ KHUNG CẢNH : cảnh vật tự nhiên, gia thất, đồi sát tế.
+ THỰC HIỆN : Gia trưởng và Hiền mẫu.
+ THÁNH CA PHỤ HOẠ : (Ca đoàn Hiền mẫu).
* PHẦN 3: ĐỨC MARIA: Gương mẫu Niềm Tin tuyệt vời.
+ NHÂN VẬT : Sứ thần, Maria, Giacaria, Êlisabet.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm 2 tiểu phẩm sau:
- Truyền tin.
- Thăm viếng.
+ KHUNG CẢNH : Cảnh gia thất Maria và Giacaria.
+ THỰC HIỆN : G.L.V.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (Ca đoàn Gia trưởng).
* PHẦN 4: CHÚA GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
+ Nhân vật: Giuse, Maria, các Thiên thần, mục đồng.
+ Hình thức: ca cảnh, diễn điệu, gồm các tiểu vũ sau:
- Giuse và Maria dìu nhau đến hang đá Bêlem.
- Thiên Thần múa hát mừng Chúa Giáng Sinh.
- Các mục đồng thờ lạy Chúa.
+ THỤC HIỆN : Quý Dì, các em mẫu giáo Tuổi thơ, Lễ sinh, GLV.
B. NỘI DUNG CỤ THỂ
KHAI MẠC :
* LỜI GIỚI THIỆU :
Kính thưa Quý Tu sĩ, cùng toàn thể Cộng đoàn!
Năm 2012 là năm thứ nhất trong kế hoạch ba năm triển khai Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sau Đại Hội Dân Chúa 2010 để đào sâu và sống chiều kích Mầu Nhiệm của Giáo Hội.
Năm 2012 cũng là năm kỷ niệm lần thứ 50 khai mạc Công Đồng Vaticanô II.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã ấn định từ ngày 11/10/2012 đến 24/11/2013 là "Năm Đức Tin" nhằm giúp toàn thể Giáo Hội khám phá và đào sâu đức tin như hồng ân của Thiên Chúa để giới thiệu đức tin cách mới mẻ trong một thế giới ngày càng tỏ ra xem thường các giá trị của đức tin Kitô Giáo. (x.Thư Mùa Vọng 2012, ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn).
Ngày Chúa nhật 16/10/2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố thiết lập một “Năm Đức Tin” bắt đầu từ 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm Công Đồng Vaticanô II và 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý Chung của Hội Thánh Công Giáo.
Chúng ta sẽ bước vào Năm Đức Tin, do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vừa công bố trong Tông Thư “Cánh Cửa Đức Tin”.
Đức Thánh Cha viết: Trong thời điểm này, chúng ta cần phải chăm chú ngắm nhìn thẳng vào Đức Giêsu Kitô, “là nguồn mạch và cùng đích của đức tin” (Dt 12,2): nơi Người mọi lo âu và khát vọng của tâm hồn con người đều được thỏa mãn. Niềm vui của tình yêu, câu trả lời cho thảm trạng khổ sở và đớn đau, sức mạnh của tha thứ trước những xúc phạm phải chịu, và chiến thắng của sự sống trên sự trống rỗng của sự chết: tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm nhập thể của Người, trong việc Chúa làm người, trong việc Người chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng phục sinh của Người. Trong Người, là Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta, những gương đức tin đã ghi dấu hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta được đưa ra ánh sáng chan hòa. (x. Tông Thư “Cánh Cửa Đức Tin”, số 13).
Chúng ta tin một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Con Một của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời, đã sinh ra làm người bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chết trên Cây Thánh giá để chuộc tội chúng ta và đã sống lại vinh hiển, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Chúng ta tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, Ngài cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh giá “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần”, chúng ta ý thức mình tuyên xưng các mầu nhiệm cơ bản nhất trong đức tin Kitô giáo, là mầu nhiệm “Ba Ngôi Thiên Chúa”, và mầu nhiệm Thánh giá Chúa Kitô. Cả hai mầu nhiệm ấy đều là mầu nhiệm Tình yêu, vì như Thánh Gioan nói, “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 8). Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình yêu nội tại ở trong Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần yêu nhau mật thiết đến nỗi là Một với nhau. Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa Duy Nhất, dù không hề lẫn lộn với nhau. Thánh giá Chúa Giêsu biểu lộ cho chúng ta biết: Thiên Chúa muốn chia sẻ Tinh Yêu của Ngài cho chúng ta, mặc dù chúng ta là những kẻ có tội.
Tin vào Chúa Giêsu là tin Thiên Chúa là Tình Yêu và đã chia sẻ Tình Yêu cho chúng ta trong Chúa Giêsu, chính vì lẽ đó mà chúng ta hết sức hân hoan vui mừng. Niềm vui lớn nhất của cuộc đời chúng ta phát xuất từ niềm tin ấy. Tin Chúa Cha yêu thương chúng ta, đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Tin Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và đã chết vì ta, nhưng đã chiến thắng sự chết và đã sống lại cho chúng ta được sống. Tin Chúa Thánh Thần yêu thương chúng ta và ban Sự Sống cho ta, giúp ta gắn bó với Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
Tâm hồn chúng ta tràn trề Hy vọng, vì tin cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Các Ngài muốn cho chúng ta đạt đến mục đích cao cả nhất, cũng là mục đích cuối cùng của cuộc đời chúng ta, là được chia sẻ Tình yêu và Sự Sống vĩnh hằng của các Ngài. Nhưng để đạt mục đích ấy, chúng ta phải trải qua cuộc sống trần gian, đầy những sóng gió và thử thách.(x.Thư Mùa Vọng 2012, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc)
Sứ điệp ngày Truyền Giáo 2011, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI nhắn nhủ: Tin Mừng không phải là một món quà độc chiếm được ban cho ai đó, nhưng còn là một tặng vật cần được chia sẻ, một tin vui phải được loan truyền. Đây là trách nhiệm không chỉ uỷ thác cho một vài người, nhưng nhắm đến tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy”.
Trong Thư chung 2011, HĐGMVN ước mong “mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ triển khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp phần thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và hiệu quả”. Mỗi người tùy vị trí và khả năng, “hãy góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước chúng ta” (số 48).
Những lời giáo huấn trên đây hướng về chân lý: Thiên Chúa là Tình yêu, tình yêu ấy đã hướng tới việc phục vụ con người qua công trình sáng tạo vĩ đại, qua lịch sử Cứu độ và qua cuộc nhập Thể Cứu thế nơi Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta sẽ mừng kính Mầu nhiệm Giáng sinh của Ngài trong đêm nay.
Lần giở lại một vài đoạn Kinh thánh được diễn nguyện trong đêm Canh thức hôm nay, chúng ta cùng chiêm ngắm hai mẫu mực đức tin. Tổ phụ Abraham và Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tình yêu lời cảm mến tri ân, lòng hân hoan vui mừng nhân biến cố mừng Chúa Giáng sinh để ban Ơn Cứu độ cho chúng ta không chỉ trong Đêm cực Thánh này, không chỉ trong Mùa Giáng sinh hồng phúc, mà trong suốt hành trình của Giáo hội, trong suốt cuộc đời chúng ta.
Giờ đây, để cho đêm Hoạt cảnh – Canh thức được bắt đầu, Cộng đoàn chúng ta hãy hiệp lời cùng Ca đoàn để diễn tả tâm tình mong chờ Chúa đến.
* Cộng đoàn đứng lên, mỗi người thắp nến sáng đưa cao và cùng hát bài “Trời Cao”.
I. PHẦN MỘT : SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và chia sẽ hạnh phúc cho con người.
(Sân khấu để tối, chỉ cần đủ ánh sáng cho người dẫn).
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Câu đầu tiên của sách Sáng thế đã viết: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,1-2).
Vâng, khi Thiên Chúa chưa sáng tạo muôn vật, vũ trụ này chỉ là hư vô, trống rỗng, chỉ có một mình Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài không muốn gói gọn tình yêu trong Trái tim của Ngài, Ngài chỉ muốn mở Tình yêu ra, trao ban tất cả; mà sáng kiến đầu tiên của Tình yêu ấy là công trình tạo dựng trời đất muôn vật cách quyền năng và lạ lùng khôn tả. Sách Sáng thế ghi rằng: Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng và Thần khí để sáng tạo ra ánh sáng xoá tan đêm tối (Bật điện sáng), Người phân rẽ ánh sáng bóng tối (Tắt điện một chút rồi bật sáng ngày), Người tạo nên vũ trụ bao la với đầy đủ tinh tú (Bật các bóng trang trí), Người phân rẽ đất nước và sinh ra trên đó biết bao sinh vật (Các em hoá trang nhảy ra). Thiên Chúa thấy mọi sự rất tốt đẹp. Tuy nhiên, Thiên Chúa thấy vẫn còn thiếu một cái gì đó, Ngài nhìn muôn vật bơ vơ chưa có ai cai quản, Ngài liền nghĩ và thực hiện ngay ý định: “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như Chúng Ta để con người làm bá chủ chim trời, cá biển và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1,26); và thế là con người, tạo vật cuối cùng và cao trọng nhất đã được dựng nên để thay Chúa cai quản mọi vật (Ađam, Eva nắm tay nhau hạnh phúc bước ra trong làn nhạc êm). Và thế là công trình tuyệt diệu của Tình yêu đã hoàn tất. Đối với muôn vật, tình yêu của Chúa đã được phủ đều, tuy nhiên Tình yêu ấy hầu như được kết tụ nơi con người khi ban cho họ hai đặc ân tuyệt hảo đó là được giống Chúa, mang hình ảnh của Ngài và được cai quản muôn vật.
Như thế đấy, muôn vật, mọi trật tự kỳ diệu của vũ trụ và cả loài người cao trọng chúng ta đã được hình thành từ trong quyền năng và Tình yêu của Chúa. Tình yêu muốn được chia sẻ, Tình yêu để phục vụ. Chúng ta hãy hiệp cùng Ông bà Nguyên tổ, cùng muôn vật, vũ trụ hát lên lời ca tụng Chúa, cùng loan tin vui sáng tạo cho muôn người ở khắp mọi nơi.
* Vào vũ khúc: Muôn tạo vật ơi. (Thiếu nhi)
II. PHẦN HAI : Abraham, cha những kẻ tin.
* LỜI DẪN:
Thế rồi, theo lời Kinh thánh tường thuật, bản hoan ca phượng thờ của con người và muôn loài thụ tạo ở chốn địa đàng xưa dành cho Thiên Chúa tình yêu tưởng như là bất tận ấy đã mau chóng bị ngắt quãng mà nguyên nhân lại xuất phát từ phía con người – tạo vật lý tưởng của Thiên Chúa: nguyên tổ sa ngã, lòng ghen tương đố kỵ, tính ích kỷ, kiêu căng … đã đẩy con người đi vào con đường của ma quỷ: bội phản lại Thiên Chúa – Đấng vì yêu thương đã tạo dựng và phục vụ mình. Tuy nhiên, mặc cho con người tiếp tục dấn bước trên con đường bội phản, Thiên Chúa vẫn kiên trì tự mặc khải như một Đấng Thiên Chúa vô cùng chung thuỷ và thường hằng bất biến qua việc tuyển chọn và tinh luyện mà Ngài đã liên lỉ thực hiện dọc theo lịch sử Cứu độ để lôi kéo con người về lại với niềm tin đích thực.
Và trong dòng dõi bội phản, vẫn còn đó và sáng chói lên những khuôn mặt đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tinh luyện, để qua đó, Ngài làm sáng tỏ những mẫu gương Đức Tin vào Thiên Chúa thật tuyệt hảo cho muôn đời hậu thế dọc theo lịch sử Cứu độ. Chúng ta hãy chiêm ngắm Abraham, một mẫu gương niềm tin sáng chói bằng sự trung thành và gắn bó với Thiên Chúa giữa cuộc đời.
Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ắm con trẻ, ông thấy một tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già. Hai ông bà yên tâm an hưởng những ngày còn lại trên trần thế.
Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: "Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi ". Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan. Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại. Chúa phán: "Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta ".
Thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường, đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin của ông quả là vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23) và Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.
* VÀO HOẠT CẢNH :
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM.
(Màn mở, cảnh cánh đồng với đàn súc vật, Abraham đang cầm gậy, đứng quan sát đàn súc vật, bỗng có ánh sáng loá từ trời, Abraham giật mình hoảng sợ, lùi lại vài bước và sụp quỳ xuống, dần dần ngước đầu lên nhìn về phía ánh sáng chói).
Tiếng Chúa: Abram! Abram!
Abraham: Dạ, dạ, …, tôi đây!
Tiếng Chúa: Abram hãy nghe đây, hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy và ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc!
Abraham: (Vẻ bất ngờ, ngơ ngác, bàng hoàng; ánh sáng lịm dần) – Vâng, tôi xin nghe, lạy Chúa! (Hấp tấp đứng dậy và vội vã lùa súc vật đi vào).
Lời dẫn: Bất ngờ, bàng hoàng, khó chấp nhận … nhưng thái độ của Abraham lại hoàn toàn ngược lại: Ông mau mắn hiểu ra Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa – Đấng ông hằng tôn thờ mà thực thi không tính toán (Nhạc êm, Abraham cùng Sara, Lot, một số giai nhân, một số súc vật hồ hởi đi ra vẻ rất vui và háo hức. Cả nhà cùng đứng lại vẻ ngắm nhìn vùng đất, bỗng có tiếng gọi từ trời)
Tiếng Chúa: Abram, ngươi hãy coi, đây là phần đất mà Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi. Trên phần đất này, Ta sẽ là khiên thuẫn đỡ cho ngươi và dòng dõi ngươi.
Abraham: (Hấp tấp quỳ xuống, ngước mắt lên trời, mọi người làm theo) – Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì, con ra đi mà không có con cái? Chẳng lẽ kẻ gia nhân lại là người thừa tự của con hay sao?
Thiên Chúa: Không, kẻ đó không là người thừa kế mà là người do chính ngươi sinh ra mới là thừa kế của ngươi. Ngươi hãy nhìn lên trời mà xem, ngươi có đếm nổi hết số sao đó không, rồi đây, dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi biển, sẽ sở hữu phần đất này làm gia nghiệp. Trên phần đất này, Ta sẽ làm cho ngươi thành cha của nhiều dân tộc, Ta sẽ gọi ngươi là Abraham vì ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Hãy nghe đây, Ta là Thiên chúa toàn năng, ngươi hãy bước đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta, Ta sẽ cho ngươi trở nên đông thật đông, ngươi hãy tuân giữ giao ước của ta.
Abraham: (Cúi sấp mình xuống, mọi người cùng làm theo) – Lạy Thiên Chúa toàn năng, con tin và cảm tạ Ơn Người! (Mọi người ngẩng lên, đưa hai tay lên cao, ngước mặt lên trời).
b) MÀN 2: TIẾP ĐÓN NGƯỜI CỦA THIÊN CHÚA
(Màn mở, cảnh túp lều, một bụi cây, Sara ngồi trong lều, Abraham đang ngồi nghỉ mát nơi gốc cây, trong tiếng nhạc nền, bỗng có ba người chợt xuất hịên trước mặt Abraham).
Abraham: (giật mình, hốt hoảng đứng bật dậy, chạy vội ra và sụp lạy) – Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các Ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!
Ba vị khách: (Vẻ hân hoan) – Xin chào người công chính của Đức Chúa, xin Ông cứ làm những gì như ông vừa nói! (Vui vẻ ngồi vào các cục đá nơi gốc cây)
Abraham: (Hối hả chạy vào lều, vừa chạy vừa gọi): - Bà Sara ơi, người của Đức chúa đến viếng thăm chúng ta đây! (Abraham vào lều, nói vọng ra) – Bà mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi và làm bánh – (gọi tiếp) – Giai nhân đâu? – (Có tiếng thưa vọng ra) – Dạ! – Mau bắt một con bê sữa làm thịt ngay để nhà ta đãi khách quý! – Dạ!
(Trong tiếng nhạc, cảnh giai nhân chạy qua chạy lại tất bật, Abraham ngồi tiếp chuyện Người của Chúa, cảnh dọn cơm, ba người khách ngồi vào bàn, Abraham ngồi tiếp).
Abraham: (Xởi lởi) - Xin mời, xin mời, bữa cơm đạm bạc này xin được làm ấm lòng các vị, chúc các vị ngon miệng! – (Bốn người cụng ly, vui vẻ).
Người của Chúa: (Như chợt nhớ ra) – À, Abraham này, bà Sara vợ ông đâu rồi?
Abraham: Thưa các vị, nhà tôi hay ngại lắm, bà ấy ở trong lều.
Người của Chúa: (Dí dỏm) – Ông có tin hay không thì tùy, nhưng sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây, thì ông bà đã có một cu cậu con trai để bế rồi đấy! – (Cười)
Abraham: (Cười khẩy) – Các Ngài khéo đùa, tôi đã gần trăm tuổi, nhà tôi cũng đã là bà lão chín mươi, chuyện sinh đẻ ai lại dám mơ nữa!
(Bỗng văng vẳng tiếng cười khúc khích và tiếng nói vọng ra: Ôi dào, mình đã là một bà lão cằn cỗi, còn hưởng thú vui nữa sao? Ông ấy còn là một ông lão già nua, có mà chuyện lạ!)
Người của Chúa: (Nghiêm nét mặt) – Kìa Abraham, tại sao bà ấy lại không tin, lại cười chúng tôi mà nghĩ là người già mà sinh con có là chuyện lạ?
Abraham: (Ngạc nhiên, lúng túng, vẻ ngơ ngác)
Người của Chúa: Abraham, ông hãy nhớ một điều, Đức Chúa đã hứa với ông, mà Ngài thì luôn trung tín; vả lại, có điều gì kỳ diệu mà vượt được sức Đức Chúa hay không! Ông hãy nhớ kỹ điều này là: bằng giờ sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây thì Bà Sara đã có cho ông một cậu con trai đấy, thôi, cơm no rượu say rồi chúng tôi xin phép ra đi! (lục tục đi)
Sara: (ra khỏi lều, vẻ ngại ngùng) – Xin các Ngài hãy lưu lại đã, lúc nãy có vị bảo là tôi cười, nhưng nào tôi dám cười!
Người của Chúa: Bà đã cười, bà hãy nhờ lời chúng tôi đấy nhé! Thôi, chúng tôi đi!
Cả hai ông bà: Vâng, tạ ơn Đức Chúa, kính chúc các vị bằng an (Hai người nhìn nhau trìu mến, màn đóng).
c) MÀN 3 : SÁT TẾ ISAÁC.
(Màn mở, cảnh túp lều, trời nhá nhem tối, Abraham ngồi bên ngoài như nghỉ ngơi, bỗng có ánh chớp loè, Abraham hoảng hốt, ngơ ngác).
Tiếng chúa: Abraham, Abraham!
Abraham: (Vội vàng quỳ sụp xuống) – Lạy Đức Chúa, này con đây!
Tiếng Chúa: Này Abraham, Ta rất hài lòng về ngươi, vì ngươi luôn giữ giao ước với Ta. Ta chỉ còn một việc duy nhất muốn ngươi làm đó là sáng sớm mai, ngươi hãy đem Isaác – đứa con mà Ta đã ban cho ngươi đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu, ở trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho ngươi!
Abraham: (Sụp ngồi xuống thất vọng) – Ôi, lạy chúa … (lại quỳ thẳng lên kiên quyết) – Vâng, lạy Đức Chúa, điều gì Đức Chúa muốn con xin thi hành! (Lại ngồi thụp xuống đau khổ, trời tối hẳn. Một lát sau, trời tảng sáng, tiếng gà gáy, có tiếng Abraham gọi trong lều)
Abraham: Bà ơi, Isaác ơi! Trời đã sáng rồi, dậy mau!
Sara: (Vẻ ngái ngủ) – Sao hôm nay ông lại dậy sớm thế!
Abraham: Dậy đi bà ơi, con trai ơi, tối hôm qua, Đức Chúa đã muốn tôi cùng Isaác đi tế lễ cho Người!
Sara: Vậy à, tôi dậy đây – (Gọi vọng) – Isaác ơi, dậy đi con, hôm nay con được cùng cha đi tế lễ cho Đức Chúa đấy!
Isaác: (Vẻ rất tỉnh) – Ôi, vậy à, con sướng quá, hôm nay thế là đã được đi tế lễ cùng cha rồi!
(Có tiếng Abraham thở dài, tiếng lục đục một lúc, trời tảng dần, Abraham cầm con dao cùng Isaác đeo bó củi bước ra. Abraham vẻ buồn rười rượi, Isaác vui vẻ vô tư, Sara bước ra có vẻ lo lắng vì thấy chồng không vui).
Sara: Ông ơi, sao hôm nay ông có vẻ hơi lạ, ông mệt à, hay là để tôi cho gia nhân đi cùng ông!
Abraham: Thôi bà, có gì đâu! Tôi đi đây – (Cao giọng) – Ta đi thôi con trai!
Isaác: Vâng! (ngoảnh lại) – Con đi mẹ nhé!
Sara: Được rồi, hai cha con đi bằng an! (Hai cha con vẫy chào đi thẳng, Sara vẫn đứng nhìn theo chưa hết vẻ lo ngại, cảnh dừng).
Dạo đàn và hát bài: tổ phụ Abraham sát tế con trai.(Hậu trường chuẩn bị sân khấu phần tế lễ Isaac).
(Sân khấu tối một chút rồi sáng hẳn, cảnh tự nhiên, đã có một bàn thờ kê sẵn, hai cha con đang xếp củi lên bàn thờ, Abraham cặm cụi làm vẻ đau khổ, Isaác ngược lại hết sức vui vẻ, vô tư).
Isaác: Cha ơi, mình xếp củi xong rồi nhưng con có thấy lễ vật đâu Cha? – (Cười dí dỏm) – Không lẽ cha chỉ đốt củi xông khói cho Đức Chúa thôi sao! – (Giật mình vì thấy Cha sầu não, vội chuyển thái độ ân cần) – Cha, con xin lỗi vì đã vô ý đùa với Cha! Nhưng mà … nhưng mà sao hôm nay con thấy cha có vẻ gì … kỳ lạ lắm! Cha, cha có chuyện gì buồn, hay cha không khoẻ, hay cha đang giận con … hả cha?
Abraham: (Nhìn con trìu mến) - !!!
Isaác: (Vẻ lấy lòng) – Cha, con chỉ đùa có tí thôi mà, cha đừng giận con nữa nhé, thôi bây giờ để con chất nốt mấy cây củi này nữa là xong, rồi cha con ta đi bắt lấy một con dê núi làm của lễ cho Đức Chúa! (Cúi xuống nhặt củi).
Abraham: (Thả dao, ôm chầm lấy con) – Isaác con ơi, cha chẳng buồn con đâu, cha cũng chẳng đau bệnh gì hết, cha rất thương con vì con là cả cuộc đời của cha! Nhưng con ơi, hôm nay, Thánh ý của Đức Chúa là muốn cha dùng con làm của lễ toàn thiêu kính dâng lên Ngài …!
Isaác: (Hoảng sợ, dẫy ra khỏi tay cha, lùi lại hai ba bước) – Cha! …
Abraham: (Đau khổ, nói trong nước mắt) – Con yêu, cha thương con hơn bản thân cha – (Bước đến ôm con) – nhưng ý của Đức Chúa làm sao cha dám làm trái lại. Con ơi, Cha rất thương con, thương con lắm nhưng cha phải vâng lệnh Đức Chúa thôi con ơi!
(Abraham khóc nức lên, Isaác rời khỏi tay cha, lùi lại vài bước nữa rồi quỳ sụp xuống. Abraham với lấy con dao tiến vài bước đến gần Isaác lưỡng lự, sau đó dứt khoát vung dao lên, bỗng có ánh sáng chói loà, tiếng Thiên Chúa vang lên dứt khoát)
Tiếng Chúa: Abraham, Abraham, hãy dừng ngay lại!
(Abraham giật mình dừng tay, còn để nguyên vị trí, hai cha con ngước lên trời ngơ ngác)
Tiếng Chúa: Ngươi đừng giơ tay làm hại đứa trẻ, đừng đụng đến nó! Bây giờ Ta đã biết ngươi là kẻ hết lòng kính sợ Đức Chúa. Đối với Ta, đến đứa con đầu lòng duy nhất mà ngươi cũng chẳng tiếc. Hãy nghe đây, hỡi Abraham, vì ngươi đã làm điều đó nên Ta sẽ lấy Danh Ta mà thề rằng: Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông như sao trên trời, như cát bãi biển, dòng dõi ngươi sẽ chiếm được các thành trì của giặc. Mọi dân tộc trên địa cầu này sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi ngươi đã vâng lời Ta!
(Tiếng Chúa dứt, hai cha con bàng hoàng một lát rồi ôm chầm lấy nhau sung sướng, bỗng có tiếng dê kêu, hai cha con cùng chạy đi và quay lại với con dê trong tay, đặt dê lên đàn tế lễ, châm lửa rồi quỳ sụp xuống)
Hai cha con: Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chúng con tạ ơn Ngài! (Màn đóng).
III. PHẦN III : ĐỨC MARIA: MẪU MỰC ĐỨC TIN
* LỜI DẪN :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta vừa chiêm ngắm Abraham – Tổ phụ dân tộc Thánh, dân riêng của Chúa. Abraham đã nêu cho chúng ta gương mẫu một ĐỨC TIN TUYỆT HẢO: Ông luôn tín thác, tin tưởng và trung thành với Đức Chúa – Đấng đã làm cho ông biết bao điều kỳ diệu. Ông đã được mệnh danh là “Cha các kẻ tin”. Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Đi dọc Lịch sử Cứu độ, chúng ta còn được chiêm ngắm biết bao gương mẫu nữa nơi các Tổ phụ Israel, như Maisen, như các thủ lãnh, Các Vua Do thái … và, vào thời viên mãn, chúng ta cũng sẽ được chiêm ngắm một mẫu gương tuyệt vời nữa nơi Đức Maria – người nữ tì của Thiên Chúa – bóng dáng của Lời hứa Cứu độ. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là “người diễm phúc vì Mẹ đã tin” (Lc 1,45).(x. Cánh Cửa Đức Tin số 14). Đức Maria đã nên gương mẫu ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG cho chúng ta như thế nào, hai đoạn hoạt cảnh ngắn sau đây sẽ chỉ ra cho chúng ta một bài học ĐỨC TIN thật quý giá.
* MÀN 1: TRUYỀN TIN
(Cảnh nội thất, Maria đang ngồi bên bàn đọc sách vẻ chăm chú, nhạc du dương êm đềm. Bỗng ánh chớp loà, ánh sáng quay cuồng, một Thiên thần xuất hiện uy nghi trước mặt Maria; Maria bàng hoàng, thả sách, đứng bật dậy lùi lại vài bước…)
Thiên thần: (Trịnh trọng chắp tay) – Kính chào trinh nữ đầy ân sủng! Trinh nữ hãy vui mừng lên vì Thiên Chúa luôn ở cùng trinh nữ!
Maria: (Từ sợ sệt ra bối rối) – Người … người là… ai, và … lời chào vừa rồi của người có ý gì mà phận nữ nhi của tôi không thấu hiểu được!
Thiên thần: Hỡi Trinh nữ Maria, xin đừng sợ! Ta là Thiên sứ Gabriel của Thiên Chúa; Ta được sai đến để báo cho Trinh nữ một tin vui mừng trọng đại: Trinh nữ rất đẹp lòng Thiên Chúa! Và này đây Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trại, đặt tên là Giêsu! Chính Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít Tổ phụ, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!.
Maria: (Ngạc nhiên, bối rối hơn) – Thiên sứ đáng kính, việc mà Thiên sứ vừa nói xảy ra thế nào được, vì phận nữ tôi tuy đã đính hôn với Giuse nhưng nào đã biết đến việc vợ chồng?
Thiên thần: Trinh nữ hãy an tâm, người con mà trinh nữ sẽ cưu mang không bởi huyết tộc của Giuse, người bạn trăm năm của trinh nữ đâu!
Maria: Vậy thì chuyện Sứ thần nói càng không thể có!
Thiên thần: Không, có đấy! Chính Thánh thần sẽ ngự xuống trên Trinh nữ và quyền năng của Đức Chúa tối cao sẽ rợp bóng trên Trinh nữ. Vì vậy, Đấng mà Trinh nữ cưu mang và sinh ra chính là Đấng Thánh, là Con thiên Chúa!
Maria: Nhưng … !
Thiên thần: (Cắt ngang) – Trinh nữ hãy an tâm và vững tin! Kìa bà Elisabét, người chị họ của Trinh nữ tuy đã già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai. Người đã từng mang tiếng là hiếm hoi, vậy mà đã mang thai sáu tháng rồi! Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Từ từ quỳ gối, còn do dự, lo lắng …)
Thiên thần: Trinh nữ thân yêu, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Tự tin hơn, ngẩng lên nhìn Thiên thần) – Vâng, phận tôi là nữ tì bất xứng! Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Thiên thần vừa nói! (Cúi đầu, cung kính).
(Nhạc nổi du dương, Thiên thần cung kính cúi chào Maria rồi biến đi trong ánh chớp, Đức Maria thinh lặng)
* MÀN 2: THĂM VIẾNG.
Lời dẫn:
Trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ Maria đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối tăm gập gềnh. Xin Vâng là để cho Chúa sử dụng con người mình, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ. Nếu Đức Maria chấp nhận ý Thiên Chúa, chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa ngay khi chưa về chung sống với thánh Giuse, thì Mẹ cũng phải chấp nhận những hậu quả xảy ra sau đó. Có thể đã có những hiểu lầm suýt gây tan vỡ, nhưng quan trọng hơn cả là từ sau lời Xin Vâng đầu tiên, Đức Maria hiểu rằng tình yêu giữa mình và thánh Giuse đã đổi khác. Mẹ được mời gọi để dâng hiến trọn vẹn con người mình - cả hồn lẫn xác - cho Thiên Chúa, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, cho Đức Giêsu Con Mẹ.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong lòng Mẹ. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Chúng ta nhìn ngắm Con Thiên Chúa lớn lên từ từ như bao thai nhi khác. Cần 9 tháng 10 ngày để có thể mở mắt chào đời, cất tiếng khóc hạnh phúc.
Cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, hồng ân ấy thôi thúc Mẹ hân hoan và mang niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai. …”Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." (Lc 1,39-45).
“Đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6) trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14).
Đức tin đi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều thì đức tin càng mạnh. Làm thế nào chúng ta có thể yêu mến Chúa, nếu chúng ta không dành thời giờ để tìm hiểu về Chúa qua Kinh Thánh, qua sự cầu nguyện, qua sách báo hay qua các phần thuyết giảng? Và khi yêu mến Chúa, chúng ta phải cố gắng thực hành lời Chúa vì Chúa Giêsu đã nói "ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy", và điều Chúa mong muốn là "anh chị em hãy yêu mến nhau, như Thầy yêu mến anh chị em".
Hát bài: vì yêu Isave (múa phụ họa).
(Cảnh nhà Giacaria. Giacaria đang thẩn thơ quanh sân, Maria đi vào)
Maria: (Cao giọng) – Ôi, anh Giacaria! Nghe tin anh chị có tin vui nên em vội vã lên thăm đây!
Giacaria: (Vẻ mừng rỡ, chỉ diễn tả bằng tay và nét mặt vì bị câm) …
Elisabet: (Từ trong nhà chạy ra, vẻ mừng rỡ, bỗng chững lại xoa bụng ngạc nhiên) – Ôi, Maria, em của chị!
Maria: (Ôm choàng lấy Êlisabet) – Maria, em là người thật có phúc giữa các người phụ nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc!
Maria: (Ngại ngùng) – Kìa, chị nó gì vậy?
Êlisabet: (Cầm chặt tay Maria, rạng rỡ, xúc động) – Chị nói thật lòng đấy, chị cũng thật diễm phúc! Bởi đâu chị được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm? Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi đã nhảy mừng trong lòng chị! Em thật có phúc vì đã luôn tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em! (Cười sung sướng và gật đầu dí dỏm với Giacaria)
Giacaria: (Cười vui vẻ, ra hiệu rồi đi vào nhà)
Maria: Chị ơi, em thật hạnh phúc vì phận em hèn mọn mà Đức Chúa vẫn thương tuyển chọn. Không biết rồi đây em phải làm sao cho xứng đáng?
Êlisabet: Em không phải lo, Đức Chúa đã chọn em, Ngài sẽ lo lắng mọi sự cho em thôi!
Maria: Ôi, em sung sướng quá, sung sướng cho cả chị! Thôi, Chị ơi, Đức Chúa đã thương chị em ta, Ngài không kể đến phận hèn mọn của chị em ta, chị em ta hãy dâng lên Ngài lời tri ân và ngợi khen chị nhé!
(Hai chị em nhìn nhau trìu mến, quỳ xuống ngửa mặt lên, nghiêm trang sốt sắng hát kinh Magnificát)
Maria: (Đến nâng Êlisabet dậy) – Thôi, dậy đi chị, chị em ta cùng vào nhà xem anh Giacaria làm gì để đãi chị em ta!
Êlisabet: (Như chợt nhớ ra điều gì) – Thế em định ở chơi với chị có lâu không?
Maria: (Cười dí dỏm trêu) – Đã sợ tốn cơm à? Em nghe Thiên thần báo tin là chị đã có thai sáu tháng rồi, chị đã lớn tuổi, anh Giacaria lại lâm căn bệnh khó hiểu … nên em đã xin anh Giuse cho em lưu lại giúp đỡ chị cho tới lúc chị mãn nguyệt khai hoa thì em xin về!
Êlisabet: Đúng em là người của Thiên Chúa, chị cám ơn em nhiều lắm. Thôi ta đi vào thôi!
(Hai chị em dìu nhau vào nhà trong nền nhạc).
IV. PHẦN 4 : CHÚA GIÁNG SINH: ĐỈNH CAO CỦA NIỀM TIN
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Cách đây 2012 năm, một Hài Nhi rất đặc biệt được sinh ra. Người là Thiên Chúa – Thiên Chúa trở thành con người. Hài nhi này là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng Thiên Chúa được ra đời không phải là chốn cung vàng điện ngọc. Người được sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Người đã trải qua những điều kiện và những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tin mừng Lc 2,1-20, kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
1) Một biến cố tầm thường nhất :
Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse, Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo. Ở đó không có chỗ trống cho tình người. Hai ông bà đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem, trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai. Bà đặt con trẻ trong máng cỏ. Bạn hữu thân nhân chẳng có ai. Chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng. Sự kiện chỉ có thế. Thật đơn giản.
2) Một biến cố vĩ đại nhất.
Thế nhưng, em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên Sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần, trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Ngài. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo, sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang.
Bởi vậy, biến cố Giáng sinh hôm nay bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nổi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? Một sự kiện táo bạo, táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được,Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình,và Thiên Chúa Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngõ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo.
Giáo hội chúng ta suốt hơn 2000 năm qua luôn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc vào mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu.
Đã là mầu nhiệm thì con người chẳng có thể nào suy cho cùng được. Nhưng mầu nhiệm cao vời lại không phải là một cách cửa đóng kín không cho ai bước vào; mà ngược lại, mầu nhiệm đức tin Kitô giáo luôn là một mầu nhiệm của mạc khải, nghĩa là một chân trời bao la, mời gọi, rộng mở để con người có thể mặc sức tung hoành, khám phá mà không bao giờ có thể tát cạn được. Có thể nói được mầu nhiệm là một sự phong phú tự bản chất, nghĩa là luôn sống và luôn triển nở mà khi nào không còn phong phú và triển nở nữa thì mầu nhiệm cũng không còn là mình nữa.
Như thế, mầu nhiệm nhập thể cũng thực sự là chân trời bao la của hành trình yêu thương; hành trình “mầu nhiệm”, nghĩa là hành trình không bao giờ có thể hoàn tất nhưng luôn phong phú và mở ra mãi.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với thế gian trong cung lòng Trinh nữ Maria. Ngôi lời đã sinh ra làm người và ở giữa chúng ta.
Giờ đây, kính mời cộng đoàn cùng chiêm ngắm Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa và hãy xác định thái độ sống Đạo hôm nay của mình như thế nào ở giữa thế gian dựa theo những tiểu phẩm hoạt cảnh sau đây.
* VÀO HOẠT CẢNH.
(Màn đêm bao trùm cảnh vật. Khung cảnh thành Bêlem hiện ra. Giuse tay cầm gậy, đeo hành trang trên vai. Đi sau là Maria đang nặng nề cất bước).
Giuse: Maria trông kìa: Bêlem kinh thành vua Đavít. Ta tiến vào để cho kịp ghi tên. Chiếu chỉ vua nào dám trái lệnh trên, phải đăng kí khắp mọi miền đất nước! (Quay lại Maria) – Maria! Chắc đường xa mình đã mệt.
Maria: Giuse ơi! Tới đâu rồi anh nhỉ! Lữ quán nào ta đến để nghỉ chân. Đường đi xa, mệt mỏi khắp châu thân, và có lẽ… như đã gần… anh ạ!
Giuse: (Giật mình lo ngại) – Ôi! Lạy Chúa! Đường xa xôi vất vả, lại đến ngày mình mãn nguyệt khai hoa, giữa đêm đông giá buốt lại không nhà, tìm đâu được chỗ cho nàng trú ngụ (Im lặng trầm tư trong chốc lát) – Kìa, lữ quán xa xa ta đến liều hỏi thử (đưa tay chỉ) – Chỉ mong rằng được lưu ngụ qua đêm! (Cả hai người dìu nhau tới gõ cửa lữ quán, cửa mở, chủ quán bước ra, vẻ đon đả).
Chủ quán 1: Ồ, hân hạnh, thật hân hạnh, xin chào ông bà! Chắc ông bà cần quán trọ?
Giuse: Xin chào ông, chúng tôi là lữ khách, đường đi xa đêm tối lại không nhà, xin rộng lòng giúp đỡ bước can qua, cho trú tạm trong nhà qua đêm vắng.
Chủ quán 1: (Khoác lác, vừa nói vừa làm cử điệu) – Quán của tôi có tên là ánh sáng, cứ bước vào sang trọng lắm đi thôi, mọi tiện nghi có đầy đủ khắp nơi. Khỏi lo sợ, khỏi ngại ngùng băng giá. Quán của tôi khắp vùng đều biết cả, mấy hôm nay khách tất cả về đây mà hễ đến là có chỗ ở ngay! (Cười hề hề) – Nhưng… cũng phải có đầy túi bạc!
Giuse: Thưa ông chủ quán… chúng tôi xin ông… (ngập ngừng).
Chủ quán 1: (Ngắt lời, chăm chú ngắm nhìn hai ông bà từ đầu đến chân rồi lắc đầu bĩu môi) – Ồ, không được, không được! Ông có biết là kinh thành ánh sáng, lữ quán đây dành cho kẻ có tiền, chứ ông bà kẻ đói khó nghèo hèn, sao cả dám mon men mà gõ cửa… Thôi! Đi đi, đi mà kiếm nơi khác!
Maria: (Tiến lên một bước nói xen vào) – Ông chủ quán, xin làm ơn giúp đỡ…
(Chủ quán không trả lời, đóng ập cửa lại. Giuse và Maria lủi thủi đi ra không ai nói với ai lời nào. Bước sang quán thứ hai gõ cửa).
Chủ quán 2: (Mở cửa bước ra xum xoe đon đả) – Xin chào ông bà! Quý hoá quá, mời ông bà vào quán trọ chúng tôi! Quán chúng tôi lừng tiếng khắp nơi nơi, đã tìm đến không thể rời chân bước!
Giuse: Bà chủ quán! Giữa mùa đông giá buốt, bà làm phúc cho trú tạm đêm nay, ơn cao dày ghi khắc mãi từ đây, xin mở rộng lòng nhân từ giúp đỡ…
Chủ quán 2: (Nói kéo dài giọng, nguýt mắt, hai tay chống nạnh) – Ôi dào, vậy mà tôi cứ ngỡ ông bà đây là những kẻ có tiền… trời ơi! Nhìn đói khổ thế này, mà dám đến làm phiền, lếu láo thật, đi! Đi liền cho khuất mắt! (Giuse và Maria cúi đầu lủi thủi bước ra, Giuse ngao ngán ngước mắt nhìn trời, giọng tư lự)
Giuse: Đêm thanh vắng, bốn bề sương giá buốt, đường gập ghềnh thêm mỏi bước chồn chân. Thương cho nàng, lòng tôi thật phân vân, ngày mãn nguyệt lại trăm phần đau khổ… (Nhìn Maria âu yếm, lo lắng) – Trong kinh thành không tìm ra chỗ trọ, nơi hoang vu nào biết ngỏ cùng ai (Ngước mắt nhìn lên trời xướng cao giọng) – Cảnh khốn cùng xin trợ giúp Chúa ơi!
Maria: Này anh ơi, ta hãy kíp đi thôi, đằng xa ấy hình như là ánh sáng (Đưa tay chỉ về phía hang đá).
Giuse: (Nhìn theo hướng Maria chỉ) – Ồ, đúng rồi! Cánh đồng xa bát ngát! Xa xa kia, từng ánh lửa lập loè, trẻ mục đồng chắc đốt lửa đêm khuya, để sưởi ấm giữa bốn bề sương tuyết.
Maria: Thôi nhanh lên! Trong mình tôi cảm biết, sắp đến rồi, giờ mãn nguyệt khai hoa. Hang bò lừa ta trú ngụ làm nhà, cho qua khỏi giờ khai hoa mãn nguyệt.
Giuse: Nào ta đi thôi. (Giuse dìu Maria từ từ vào hậu trường trong tiếng gió rít).
* LỜI DẪN NỐI :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta không nên để ý nhiều đến thái độ của những người đại diện cho dân Israel, cũng chỉ nên đồng cảm và trầm lắng lòng mình lại một chút thôi trước hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã của Thánh gia Nazarét trên cánh đồng Bêlem năm xưa… chúng ta hãy để tâm trí chúng ta đi ngược thời gian, đi đến tận thành Bêlem xa xôi của xứ Palestin năm xưa để cùng say sưa với vũ trụ, với muôn loài, với Israel, với toàn nhân loại và với muôn ngàn Cơ binh Thiên quốc trong niềm hân hoan sung sướng vì Ngôi Lời – Đấng Cứu độ của chúng ta đã Giáng sinh – Tin mừng trong đại của muôn dân.
(Bật điện hang đá, giật chuông, tấu nhạc, phát tiếng khóc của trẻ sơ sinh, có thể mời Cộng đoàn đứng, vỗ tay).
* Vũ khúc Thiên thần.
* Múa Giáng Sinh.
VI. LỜI KẾT :
Kính thưa cộng đoàn!
Phần hoạt cảnh mà chúng ta vừa theo dõi trong đêm canh thức mừng Chúa Giáng sinh năm nay, hướng chúng ta về hai mẫu mực đức tin trong Thánh Kinh. Tổ phụ Abraham thời Cựu ước và Đức Maria thời Tân ước.
Tin là đáp lại một tiếng gọi để vươn xa hơn, cao hơn chính bản thân; là bước đi rộng hơn lãnh vực khả giác, khả tri và khả nghiệm.
Tin là một thái độ của con người toàn diện quyết định vượt xa hơn mọi thực tại hữu hình, mọi lý luận phàm trần, để dấn thân trọn vẹn cho một lẽ sống mới, trong tương quan huyền nhiệm với Đấng Tuyệt Đối.
Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).
Đối với Kitô giáo, đức tin mang một tính chất lịch sử đặc biệt, vì Lời của Thiên Chúa đã thực sự trở thành Ngôi Lời, sống giữa nhân loại (x. Ga 1, 9-10). Vì thế, tin có nghĩa là tin ở, tin vào Đức Kitô. “Những ai đón nhận và tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga, 1, 12), nghĩa là ngay từ đời này người tín hữu đã được tham dự vào nguồn sống vô biên của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô. (x. Ga 3, 16.36). Do đó mà Thánh Phaolô đã xác quyết một cách mạnh mẽ: “Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1, 12). Đó là một đức tin hoàn toàn sáng suốt và chắc chắn đối với chính mình. Hơn nữa, trong Đức Kitô, những kẻ tin Người “được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13, 11). Thực sự họ “đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1Cr 1, 5). Đó mới là sự hiểu biết vượt trên mọi hiểu biết, đưa con người đến ơn cứu độ muôn đời.
Và giờ đây Giáng Sinh đã đến. Niềm vui đã oà vỡ trong tim của mỗi người chúng ta. Một niềm vui thánh thiện, sâu lắng vì chúng ta thật sự đã cảm nhận được thế nào là vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta, thế nào là Giêsu cứu thế, thế nào là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một, để ai tin vào Con cùa Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Quả thật với mỗi người chúng ta đêm nay, niềm vui Giáng Sinh, Phụng vụ Giáng Sinh không phải chỉ là một lễ hội bình thường, mà là một Tin Mừng đích thực như Tin Mừng mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thuở xưa nơi đồng vắng Bêlem: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đavít, Đấng Cứu thế đã giáng sinh…”.
Giờ đây, chúng ta hãy hiệp cùng các em thiếu nhi lời reo mừng, lòng hân hoan mừng Chúa Giáng sinh 2012 với tất cả lòng tin và mến yêu.
VII. Kiệu Chúa Hài Đồng
VIII. Kiệu đến trước lễ đài, đặt Chúa Hài Đồng vào máng cỏ, bắt đầu thánh lễ ĐÊM GIÁNG SINH.
Ban Giáo Lý Giáo Phận Đalạt 23-12-2012
CANH THỨC GIÁNG SINH 2012
CANH
THỨC GIÁNG SINH 2012
NĂM
ĐỨC TIN
Chủ
đề
"Anh
em hãy tin vào Đấng mà Người đã sai đến" (Ga 6, 29)
I. KHAI MẠC
v Dấu Thánh giá
v Vũ khúc chào mừng "Ngợi Khen Chúa"
Lấy Mp3 xin lấy tại
đây
1/ Như bao nụ hoa
kết nên một triều thiên - Muôn lòng chúng con kết thành một bài ca - Một bài ca
tôn vinh Chúa Trời - Một bài ca tri ân cảm tạ - Vì tình Chúa bao la - Tràn ngập
khắp dương gian.
ĐK/ Ngợi khen Thiên
Chúa - Tán dương Danh Ngài - Xin dâng lời chúc tụng - Chúc tụng Chúa tể càn
khôn. Ngợi khen Thiên Chúa - Chúa tể muôn loài - Xin suy phục cung kính - xin
tôn thờ yêu mến.
2/ Bao nhiêu kỳ
công - Núi sông và biển Đông - Tay Ngài tác nên - Quả thật kỳ diệu thay - Hợp
lời ca tôn vinh Chúa Trời - Ngài toàn năng uy linh vĩ đại - Ngài là Chúa cao
sang - Ngài là Chúa vinh quang.
v Tổng
dẫn (Ông Trưởng Ban Đại Diện)
Kính Thưa cộng đoàn!
Cùng với Giáo Hội, chúng ta đã bước vào Năm Đức Tin. Giáo Hội mở Năm Đức
Tin này nhằm mục đích gì? Trong tự sắc, "Cửa Đức tin", Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI trả lời rằng là để "dẫn vào đời sống kết hiệp với Thiên
Chúa, đồng thời mở ra con đường bước vào Giáo hội, vẫn luôn mở rộng cho chúng
ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và để cho
ơn biến đổi uốn nắn tâm hồn. Bước qua cánh cửa đó là dấn bước vào một cuộc hành
trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu bằng bí tích Rửa Tội (x. Rm 6,
4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và hoàn tất với việc vượt qua
cái chết, tiến đến sự sống đời đời, là hoa quả sự phục sinh của Chúa Giêsu,
Đấng đã dùng ơn Chúa Thánh Thần mà muốn cho tất cả những ai tin nơi Người đều
được thông phần vào vinh quang của Người (x. Ga 17, 22).
Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần – chính là tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng là Tình yêu (x. 1 Ga 4,
8): Chúa Cha, khi đến thời viên mãn, đã sai Con của Người đến cứu độ chúng ta;
Chúa Giêsu Kitô đã chuộc tội trần gian trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của
Người; Chúa Thánh Thần dẫn dắt Giáo hội qua các thời đại, đang khi mong chờ
cuộc quang lâm vinh hiển của Chúa" (số 1).
Hòa
cùng với hàng triệu triệu người con trong gia đình của Chúa trên hoàn vũ nói
chúng, của Giáo Hội Việt Nam, đêm nay công đoàn chúng ta hãy cùng cảm tạ và tôn
vinh Thiên Chúa, như một cuộc hội ngộ đại gia đình để cùng nhau sống lại MẦU
NHIỆM NHẬP THỂ. Ngài là Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ trong mỗi người và từng
gia đình chúng ta để củng cố đức tin củ chúng ta, hoán cải, đổi mới đời sống
đồng thời trở về với Chúa Đấng cứu độ duy nhất của thế giới.
Vậy giờ đây, xin
kính mời Cộng đoàn bước vào giờ canh thức Giáng Sinh với chủ đề:"Anh em hãy tin
vào Đấng mà Người đã sai đến" (Ga 6, 29).
II. HOẠT CẢNH
1. SÁNG TẠO –
SA NGÃ
(nhạc nhẹ)
Dẫn : (tắt đèn) Lúc khởi đầu Thiên Chúa
sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối
bao trùm vực thẳm. Thiên Chúa dùng Lời quyền năng mà tạo nên mọi
loài mọi vật. Thiên Chúa tạo dựng trời và đất (bật đèn 1), ánh sáng
và bóng tối (bật đèn 2), sông ngòi và biển cả (bật tất cả
các đèn)...Tiếp đến Ngài tạo dựng muôn loài cầm thú, để tô điểm cho vũ trụ,
và Người thấy mọi loài Người dựng nên đều tốt đẹp nên Thiên Chúa chúc phúc cho
chúng. Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy tràn măt đất.
Thiên Chúa lại phán: Ta hãy làm ra con người giống hình ảnh Ta.
Thiên
Chúa tạo dựng con người có nam có nữ.
Người đặt con người vào vườn diệu quang, cho họ được hưởng niềm hạnhphúc
viên mãn, được làm chủ mọi loài Người đã dựng nên. Thiên Chúa còn cho họ được
tham dự vào sự sống thần linh của Người. Nhưng hạnh phúc ấy không được bền lâu,
đã vụt tắt khi con người khước từ tình yêu của Thiên Chúa và bất tuân lệnh
Ngài.
Diễn cảnh Adam & Eva phạm tội
Eva: (nhởn nhơ quanh vườn địa đàng, tiến dần tới cây cấm. Bỗng có
tiếng...)
Rắn : Hỡi con người, phải chăng Thiên Chúa cấm các ngươi không được ăn
hết mọi trái cây trong vườn?
Eva : Không đâu! Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái
cây ở giữa vườn thì không. Thiên Chúa bảo: các ngươi không được ăn, không được
đụng vào kẻo phải chết.
Rắn : Chẳng chết chóc gì đâu. Vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn
trái cây ấy, mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ nên như Thiên Chúa.
(Eva bối rối nghĩ ngợi rồi quay lại nhón gót hái trái và ăn, rồi đưa cho
cả chồng cùng ở đó với mình, ông cũng ăn). Và kìa chuyện gì đã xảy ra .
Dẫn : Thiên Chúa
gọi: Adam! Adam! Ngươi ở đâu?
Adam : Tôi đã nghe tiếng gọi của Người, nhưng tôi sợ vì tôi trần
truồng, nên tôi ẩn núp.
Tiếng Chúa: Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần
truồng, hay ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm không được ăn?
Adam : Người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã cho tôi trái cây ấy và
tôi đã ăn.
Tiếng Chúa: Tại sao ngươi làm
như vậy hỡi Eva?
Eva : Con rắn đã
phỉnh gạt tôi nên tôi đã ăn.
Tiếng Chúa: Hỡi loài rắn độc , bởi ngươi đã làm điều đó thì ngươi hãy
trở nên đồ chúc dữ. Ngươi phải bò đi bằng bụng phải ăn bùn đất mọi ngày trong
đời mi. Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, dòng dõi người đàn bà đạp
nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn vào gót chân nó. (Tắt hết đèn)
2. TIN
VÀO LỜI HỨA BAN ĐẤNG CỨU THẾ
(Bật đèn sáng nhẹ)
TỔ PHỤ ABRAHAM TIN
VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA
Dẫn: Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa không muốn để cho con người
phải mãi mãi hư mất trong tội lỗi. Nên sau khi tuyên án phạt cho nguyên tổ,
Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế cho trần gian. Dù con người vẫn tiếp tục dấn
bước trên con đường bội phản, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì tự mặc khải như một
Đấng Thiên Chúa vô cùng chung thuỷ với lời hứa. Ngài tuyển chọn và tinh luyện
dân Ngài liên lỉ theo dọc theo lịch sử Cứu độ để lôi kéo con người về lại với
niềm tin đích thực.
Vâng, trong dòng dõi này, Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham. Ngài đã
tinh luyện và làm cho ông trở thành mẫu gương của niềm tin sống động giữa muôn
dân. Qủa thật, tổ phụ Abraham một con người tuyệt hảo của Chúa cho muôn đời hậu
thế dọc theo lịch sử Cứu độ. Chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngắm Abraham tổ phụ
của niềm tin, một mẫu gương sống đạo sáng chói bằng sự trung thành và gắn bó
với Thiên Chúa giữa cuộc đời.
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM
(Màn mở, cảnh cánh đồng với đàn súc vật, Abraham đang cầm gậy, đứng quan
sát đàn súc vật, bỗng có ánh sáng loá từ trời, Abraham giật mình hoảng sợ, lùi
lại vài bước và sụp quỳ xuống, dần dần ngước đầu lên nhìn về phía ánh sáng
chói).
Tiếng Chúa: Abram! Abram!
Abram: Dạ, dạ, …, tôi
đây!
Tiếng Chúa: Abram hãy nghe đây, hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi
tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc
phúc cho ngươi, Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy và ngươi sẽ là một mối
chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ
nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc!
Abram: (Vẻ bất ngờ, ngơ ngác, bàng hoàng; ánh sáng lịm dần) – Vâng, tôi xin
nghe, lạy Chúa! (Hấp tấp đứng dậy và vội vã lùa súc vật đi vào).
Dẫn nối: Bất ngờ, bàng
hoàng, khó chấp nhận… nhưng thái độ của Abraham lại hoàn toàn ngược lại: Ông
mau mắn hiểu ra Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa – Đấng ông hằng tôn thờ mà thực
thi không tính toán (Nhạc êm, Abraham cùng Sara, Lot, một số giai nhân,
một số súc vật hồ hởi đi ra vẻ rất vui và háo hức. Cả nhà cùng đứng lại vẻ ngắm
nhìn vùng đất, bỗng có tiếng gọi từ trời).
Tiếng Chúa: Abram, ngươi hãy coi, đây là phần đất mà Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi.
Trên phần đất này, Ta sẽ là khiên thuẫn đỡ cho ngươi và dòng dõi ngươi.
Abram: (Hấp tấp quỳ xuống, ngước mắt lên trời, mọi người làm theo) – Lạy Đức
Chúa là Chúa thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì, con ra đi mà không có con cái?
Chẳng lẽ kẻ gia nhân lại là người thừa tự của con hay sao?
Tiếng Chúa: Không, kẻ đó không là người thừa kế mà là người do chính ngươi sinh ra
mới là thừa kế của ngươi. Ngươi hãy nhìn lên trời mà xem, ngươi có đếm nổi hết
số sao đó không, rồi đây, dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi
biển, sẽ sở hữu phần đất này làm gia nghiệp. Trên phần đất này, Ta sẽ làm cho
ngươi thành cha của nhiều dân tộc, Ta sẽ gọi ngươi là Áp-ra-ham vì ngươi sẽ là
cha của nhiều dân tộc. Hãy nghe đây, Ta là Thiên chúa toàn năng, ngươi hãy bước
đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi,
và Ta, Ta sẽ cho ngươi trở nên đông thật đông, ngươi hãy tuân giữ giao ước của
ta.
Áp-ra-ham: (Cúi sấp mình xuống, mọi người cùng làm theo) – Lạy
Thiên Chúa toàn năng, con tin và cảm tạ Ơn Người! (Mọi người ngẩng lên,
đưa hai tay lên cao, ngước mặt lên trời). (đèn tắt dần-viễn viên từ từ đi vào).
Dẫn: Chính vì lòng tin mà ông Áp-ra-ham đã đáp lại lời Thiên Chúa mời
gọi. Ông đã bỏ lại đằng sau lưng tất để dấn thân theo Chúa, chấp nhận để cho
Chúa hoạch định bước đường thương lai của mình. Cũng chính vì tin mà lời hứa
Thiên Chúa được thực hiện ngay từ gia đình ông. Qủa thế, bà Sara tuy đã già
nhưng Thiên Chúa đã chúc phúc cho bà, bà có thai sinh hạ con trai và đặt tên
là I-xa-ác. Từ đây, Thiên Chúa chúc phúc cho I-xa-ác và nó sẽ
trở thành những dân tộc, vua chúa các dân tộc sẽ xuất phát từ I-xa-ác.
b, Màn 2: SÁT
TẾ I-XA-ÁC
(Màn mở, cảnh túp lều, trời nhá nhem tối, Áp-ra-ham ngồi bên ngoài như
nghỉ ngơi, bỗng có ánh chớp loè, Áp-ra-ham hoảng hốt, ngơ ngác).
Tiếng chúa: Áp-ra-ham,
Áp-ra-ham!
Áp-ra-ham: (Vội vàng
quỳ sụp xuống) – Lạy Đức Chúa, này con đây!
Tiếng Chúa: Này Áp-ra-ham, Ta rất hài lòng về ngươi, vì ngươi luôn giữ giao ước
với Ta. Ta chỉ còn một việc duy nhất muốn ngươi làm đó là sáng sớm mai, ngươi
hãy đem I-xa-ác – đứa con mà Ta đã ban cho ngươi đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó
làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho ngươi!
Áp-ra-ham: (Sụp ngồi xuống thất vọng) – Ôi, lạy Chúa … (lại
quỳ thẳng lên kiên quyết) – Vâng, lạy Thiên Chúa, điều gì Thiên Chúa
muốn, con xin thi hành! (Lại ngồi sụp xuống đau khổ, trời tối hẳn. Một
lát sau, trời tảng sáng).
Áp-ra-ham: Dậy con trai ơi, tối hôm qua, Thiên Chúa nói với cha rằng sáng nay
Chúa muốn cha con ta lên núi tế lễ cho Người!
I-xa-ác: (Vẻ rất tỉnh) Ôi, vậy à, con
sướng quá, thế là đã được đi tế lễ cùng cha rồi!
(Áp-ra-ham cầm con dao cùng I-xa-ác đeo bó củi bước ra. Áp-ra-ham vẻ
buồn rười rượi, I-xa-ác vui vẻ vô tư, hai cha con đi qua đi lại. Sân khấu tối
một chút rồi sáng hẳn, cảnh tự nhiên, đã có một bàn thờ kê sẵn, hai cha con
đang xếp củi lên bàn thờ, Áp-ra-ham cặm cụi làm vẻ đau khổ, I-xa-ác ngược lại
hết sức vui vẻ, vô tư).
I-xa-ác: Cha ơi, mình xếp củi xong rồi nhưng con có thấy lễ vật đâu Cha?
– (Cười dí dỏm) – Không lẽ cha chỉ đốt củi xông khói cho Thiên
Chúa thôi sao! – (Giật mình vì thấy Cha sầu não, vội chuyển thái độ ân
cần) – Cha, con xin lỗi vì đã vô ý đùa với Cha! Nhưng mà … nhưng mà
sao hôm nay con thấy cha có vẻ lạ lắm! Cha, cha có chuyện gì buồn, hay cha
không khoẻ, hay cha đang giận con … hả cha?
Áp-ra-ham: (Nhìn con trìu
mến) - !!!
I-xa-ác: (Vẻ lấy lòng) bây giờ chất nốt đã sẵn sàng rồi, cha
con ta đi bắt lấy một con dê núi làm của lễ cho Thiên Chúa! (Cúi xuống
nhặt củi).
Áp-ra-ham: (Thả dao, ôm chầm lấy con) – I-xa-ác con ơi, cha chẳng
buồn con đâu, cha cũng chẳng đau bệnh gì hết, cha rất thương con vì con là cả
cuộc đời của cha! Nhưng con ơi, hôm nay, Thánh ý của Thiên Chúa là muốn cha
dùng con làm của lễ toàn thiêu kính dâng lên Ngài!
I-xa-ác: (Hoảng sợ,
dẫy ra khỏi tay cha, lùi lại hai ba bước) – Cha!
Áp-ra-ham: (Đau khổ, nói trong nước mắt) – Con yêu, cha thương
con hơn bản thân cha – (Bước đến ôm con) – nhưng ý của Thiên
Chúa làm sao cha dám làm trái lại. Con ơi, Cha rất thương con, thương con lắm
nhưng cha phải vâng lệnh Thiên Chúa thôi con ơi!
(Áp-ra-ham khóc nức lên, I-xa-ác rời khỏi tay cha, lùi lại vài bước nữa
rồi quỳ sụp xuống. Áp-ra-ham với lấy con dao tiến vài bước đến gần I-xa-ác
lưỡng lự, sau đó dứt khoát vung dao lên, bỗng có ánh sáng chói loà, tiếng Thiên
Chúa vang lên dứt khoát).
Tiếng Chúa: Áp-ra-ham,
Áp-ra-ham, hãy dừng ngay lại!
(Áp-ra-ham giật mình dừng tay, còn để nguyên vị trí, hai cha con ngước
lên trời ngơ ngác)
Tiếng Chúa: Ngươi đừng giơ tay làm hại đứa trẻ, đừng đụng đến nó! Bây giờ Ta đã
biết ngươi là kẻ hết lòng kính sợ Thiên Chúa. Đối với Ta, đến đứa con đầu lòng
duy nhất mà ngươi cũng chẳng tiếc. Hãy nghe đây, hỡi Áp-ra-ham, vì ngươi đã làm
điều đó nên Ta sẽ lấy Danh Ta mà thề rằng: Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi,
sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông như sao trên trời, như cát bãi biển, dòng
dõi ngươi sẽ chiếm được các thành trì của giặc. Mọi dân tộc trên địa cầu này sẽ
cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi ngươi đã vâng lời Ta!
Hai cha con: Lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa của con, chúng con tạ ơn Ngài!
(Tiếng Chúa dứt, hai cha con bàng hoàng một lát rồi ôm chầm lấy nhau
sung sướng, bỗng có tiếng dê kêu, hai cha con cùng chạy đi và quay lại với con
dê trong tay, đặt dê lên đàn tế lễ, châm lửa rồi quỳ sụp xuống- tắt đèn - đóng
màn).
Múa : MỘT ĐỜI THEO CHÚA – Lm Thế Thông (Qúy
vị muốn lấy nhạc Mp3 xin vào đây: http://mp3.zing.vn/bai-hat/Mot-doi-theo-Chua-Gia-An-Mai-Hau-Phi-Nguyen/IW8Z9ZOA.html)
1. Một đời con theo
Chúa, chẳng ngại chi dẫu có phải dầm mưa nắng đổ. Chọn tình yêu làm hành trang,
cuộc đời con hiến thân vì muôn ngàn tội nhân. Dù bão tố thét gào quanh con, xin
cứ yên lòng bước theo Ngài. Dù thời gian phai màu hương sắc, xin được trung
thành giữ vững niềm tin.
ĐK. Bao nhiêu ơn lành Ngài đổ xuống đời con, lấy chi báo đền tình Ngài như biển lớn. Mai đây trên dặm đường dài, khi lắng lo giữa trần ai thì trọn đời con luôn đi theo bước của Ngài.
2. Đường về nơi cung Thánh là đây chốn con tìm tựa nương tháng ngày. Nguồn tình yêu con nung náu thì hồn con bước gian trần mong đừng đổi thay. Dù cuộc sống có nhiều cam go, theo Chúa con nào lắng lo gì. Này đời con thay Ngài đưa lối, bên Ngài yên lòng không hãi sợ chi.
ĐK. Bao nhiêu ơn lành Ngài đổ xuống đời con, lấy chi báo đền tình Ngài như biển lớn. Mai đây trên dặm đường dài, khi lắng lo giữa trần ai thì trọn đời con luôn đi theo bước của Ngài.
2. Đường về nơi cung Thánh là đây chốn con tìm tựa nương tháng ngày. Nguồn tình yêu con nung náu thì hồn con bước gian trần mong đừng đổi thay. Dù cuộc sống có nhiều cam go, theo Chúa con nào lắng lo gì. Này đời con thay Ngài đưa lối, bên Ngài yên lòng không hãi sợ chi.
3. DÂN
PHẠM TỘI BẤT TRUNG – MÔSÊ VỊ TÔI TRUNG CỦA CHÚA
Dẫn: Lời Thiên Chúa hứa với Áp-ra-ham đã được thực hiện, Người đã ban
cho ông một dõng dõi trường tồn, đông như sao trên trời, nhiều như cát ngoài
bãi biển....Từ tiếng gọi lên đường của một người, Thiên Chúa đã tuyển chọn một
dân, dân riêng của Người, nhưng dân Người phải sống trong cảnh nô lệ, đầy khổ
nhục và nước mắt..... Vì thế, Thiên Chúa lại gọi Môsê lên đường để
thi hành sứ mệnh Người trao, là giải thoát dân Người khỏi nô lệ Ai-cập, khỏi
tay Pha-ra-ô.
Dẫn: (nhạc) Như cột mây che nắng ban ngày, cột lửa soi đường ban đêm
trong sa mạc của buổi lang thang trên đường về Đất Hứa, bàn tay Thiên Chúa vẫn
tiếp tục che chở dẫn dắt Dân riêng của Người trong suốt chiều dài lịch sử của
họ. Thế nhưng, đã biết bao lần, dân Ít-ra-en lại không nhận ra quyền năng và
tình thương vô biên ấy. Họ bất trung phản bội, thờ lạy các tà thần… và từ đó
tội lỗi đầy tràn, khổ đau chồng chất, lầm than nối tiếp lầm than trên từng cây
số lịch sử của họ. Chính trong cảnh cùng khốn của kiếp lưu đầy, nô lệ, họ giang
tay khẩn cầu, họ mong chờ Đấng Cứu Tinh đến giải thoát họ, giải thoát khỏi tăm
tối lầm than, khỏi nô lệ tù đày, khỏi cả hận thù chiến tranh, khỏi luôn đam mê
lầm lạc.
Dẫn : Ông Môsê cầu xin Thiên Chúa ban cho dân một bộ luật mới. Qủa thế, từ
trên đỉnh núi Sinai qua Môsê Thiên Chúa đã muốn ban cho dân một bộ luật mới, để
từ nay họ chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi. Nhưng họ đã làm gì? (nhạc
dạo - dân chúng đi ra lẩm bẩm than trách).
Dân 1 : Trời sa mạc
nóng bức quá không thể chịu được nữa rồi .
Dân 2 : Tôi cũng không chịu nổi, tôi đang đợi ông ấy xuống để hỏi tội
đây.
Dân 3: Nước không có mà uống, khát khô cả cổ, bánh thịt cũng chẳng có mà ăn.
Dân 4 : Thà để cho chúng ta ở Ai Cập còn có thịt bánh mà ăn, ông ấy dụ
chúng ta ra đây để giết chúng ta sao?
Dân 5 : Ừ sữa mật đâu chẳng thấy mà chỉ thấy sắp sửa chết khát đến nơi.
Aaron : Cái gì mà
mọi người ồn ào quá vậy ?
Dân : Hãy cho chúng tôi ăn bánh và thịt. Ông muốn
đưa chúng tôi ra đây để giết chúng tôi sao?
Aaron : Xin
mọi người hãy bình tĩnh .
Dân :
Chúng tôi kiên nhẫn hết nổi rồi!
Aaron : Bây
giờ mọi người muốn tôi phải làm gì cho mọi người đây ?
Dân : Ông hãy tìm cho chúng tôi một vị thần,
để thần đó phù hộ cho chúng tôi. Đưa chúng tôi trở về Ai Cập.
Aaron : Được!
Dẫn: Nghe dân kêu réo mãi Aaron không chịu nổi, ông bèn chiều theo ý dân.
Ông lấy nữ trang của họ, ném vào lửa luyện thành con bò vàng. Và dân bắt đầu ca
hát và sụp lạy mà thờ tượng đó. Họ đã nhiều lần phản bội Thiên Chúa, quên đi
lời giao ước lúc ban đầu, và cúi đầu thờ lạy các tà thần. Họ không ngừng chọc
giận Thiên Chúa, khiến nộ khí của Người bừng bừng nổi giận. Và từ trên núi
Thiên Chúa đã gọi Môsê.
Tiếng Chúa: Môsê! Môsê! Hãy mau xuống trại đi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai Cập
đã chối bỏ Ta. Chúng đã đúc cho mình một tượng thờ và đang thờ lạy nó.
Môsê : (quỳ lạy) Xin Ngài dừng cơn thịnh nộ, đừng tiêu
diệt dân Người! Xin Người nhớ lại lời đã hứa cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác
và Giacóp chúng con, mà nguôi cơn giận.
Dẫn: Và Thiên Chúa đã
đổi ý định không tiêu diệt dân chúng.
( Môsê đi xuống núi mang theo hai phiến đá có ghi mười giới luật. Khi
thấy con bò vàng và dân chúng đang nhẩy múa thờ lạy nó. Ông giận dữ ném hai bia
đá vào con bò, và con bò bốc cháy thành tro).
Môsê : Aaron, Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn
như thế?
Aaron : (cúi mặt xuống đất). Thưa Ngài, xin Ngài bớt
giận cho tôi trình bày. Như Ngài đã biết, dân này là một dân lòng chai dạ đá,
ngang đầu cứng cổ. Khi vắng Ngài, họ không ngừng nổi loạn, đòi tìm cho họ một
vị thần để vị thần ấy phù hộ cho họ. Vì không còn chịu nổi, nên tôi đành lấy nữ
trang của họ ném vào lửa mà luyện nên con bò này.
Môsê : Hỡi những kẻ lòng chai dạ đá. Hôm nay, thà ta thấy các ngươi bị
giết bởi tay anh em bạn hữu của các ngươi, còn hơn thấy các ngươi bị giết bởi
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Dân: (Quỳ lạy). Lạy Thiên Chúa xin thương xót chúng
tôi, chúng tôi đã phạm tội, đã thất tín với Ngài. Đã xúc phạm đến Môsê sứ giả
của Ngài. Xin Ngài dủ thương tha thứ ban Đấng Cứu Thế đến giải thoát chúng
tôi. (nhạc dạo, dân từ từ đi vô).
Dẫn : Vì tội bất trung nên Thiên Chúa đã để cho dân phải sống cảnh lầm than
trong sa mạc bốn mươi năm trường. Họ phải sống thiếu thốn khổ cực vì đất đai
khô cằn, sa mạc nóng cháy. Và cũng trong cảnh lầm than đó, tâm hồn họ được thức
tỉnh, và họ đã không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, ban Đấng Cứu
Thế cho trần gian. Đó cũng là tâm trạng của loài người chúng ta ngày nay. Vì
chúng ta cũng chỉ là những con người mỏng dòn yếu đuối, bất toàn và tội lỗi.
Giờ đây chúng ta cùng hợp với niềm khao khát của dân Chúa để cầu xin vị Cứu
Tinh đến Cứu Độ trần gian qua vũ khúc.
Múa: Bài ca Năm Đức Tin:
Lạy Chúa, con tin! Lm. Nguyễn Duy (lấy nhạc mp3 tại:http://tgpsaigon.net/audio/20121002/18525)
4. ĐẤNG CỨU THẾ ĐẾN
Dẫn : Giữa muôn vạn người công
chính của mấy ngàn năm mong đợi thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn một Trinh Nữ,
tên là Maria, khó nghèo, sống ẩn khuất giữa một làng quê miền bắc nước Do Thái
gọi là làng Na-da-rét, để cộng tác với Ngài trong công trình Nhập Thể của Đấng
Cứu Thế. Vâng, Đức Trinh Nữ Maria, người con duy nhất của nhân loại, đã được
Thiên Chúa đoái thương chúc phúc ngay từ buổi đầu thai với đặc ân “Vô nhiễm
nguyên tội”, để dọn đường cho trinh nữ dấn thân vào một hồng ân cao cả hơn, đó
là được “Làm Mẹ Thiên Chúa”. Để cảm nhận sâu xa biến cố quan trọng nầy, chúng
ta hãy sống lại những giây phút rạng ngời thánh thiêng của biến cố Truyền Tin,
một biến cố mang tính quyết định trong tiến trình thực hiện chương trình cứu
rỗi của Thiên Chúa.
a, Cảnh 1: TRUYỀN TIN
(Maria
đang quì cầu nguyện và Thiên Thần xuất hiện - nhạc)
Thiên Thần : Kính chào Bà đầy ơn
phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà.
(Lúc
này Maria diễn tả sự hoảng sợ và lo lắng )
Thiên Thần : Maria đừng sợ, vì Bà đã được nghĩa với Chúa, này Bà sẽ thụ thai,
sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao trọng và được gọi là
Con Đấng Tối Cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đa-vít tổ phụ Người.
Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận.
Maria : Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến
người nam.
Thiên Thần : Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao
trùm Bà, và Đấng mà Bà sinh sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa,
và này E-li-sa-bét, chị họ Bà cũng đã thụ thai trong lúc tuổi già và nay mang
thai đã được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà
Thiên Chúa không làm được.
Maria : Này tôi là tôi tớ
Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
(Thiên Thần vẫy tay chào và đi vào )
Dẫn : Hai tiếng "Xin vâng" thật êm dịu nhẹ nhàng và khiêm tốn, đầy
can đảm và thánh thiện của Maria, chứng tỏ rằng sự quyết định của Mẹ nằm trong
tâm tình phó thác, nhờ đó mà ngày nay chúng ta được hưởng nhờ nguồn ơn cứu
rỗi. (Maria đi vào - Nhạc).
Trời đất như tưng bừng mở hội, lòng người trào dâng niềm vui khôn
tả, vì nhờ lời xin vâng của Mẹ, mà Con Thiên Chúa đã nhập thể
làm người, trần gian ca khen Mẹ, tôn vinh Mẹ là người có phúc, vì nhờ tin, Mẹ
đã trở thành Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa...
Múa : Magnificat
b, Cảnh
2: ĐẤNG CỨU THẾ GIÁNG SINH
( Diễn cảnh trở về Belem - Nhạc nền).
Dẫn : Vâng, sau lời xin vâng ấy của Mẹ Maria vũ trụ đều thay đổi, trần gian
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên chan hoà ánh sáng của ơn cứu độ. Thời ấy,
hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng
trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông
Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem,
miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai
người đang đi đến đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.
Maria : Giuse ơi, trời tối rồi không biết đêm nay chúng ta sẽ trọ ở đâu?
Giuse : Maria
đừng sợ, Chúa sẽ lo liệu mọi sự.
Giuse : Xin
làm ơn cho chúng tôi trọ qua đêm. (gõ cửa)
Chủ quán 1: Nhà tôi
hết chỗ rồi. Mời ông đi qua nhà khác.
(Hai người lại tiếp tục rảo bước tới một quán trọ khác, Giuse lại gõ
cửa).
Giuse : Xin làm ơn cho chúng tôi trọ nhờ qua đêm.
Chủ quán 2 : Nhà chúng
tôi không còn chỗ, mời ông bà đi nơi khác.
(Hai người lại tiếp tục rảo bước tới một quán trọ khác, Giuse lại gõ
cửa).
Giuse: Xin chúng tôi ở trọ nhờ qua đêm. Maria nhà tôi không đủ sức nữa.
Chủ quán 3: Đi đi, chúng tôi không có chỗ cho ông bà đâu, đi chỗ khác mà
tìm.
Giuse : Maria
đừng buồn! Chúa sẽ lo liệu cho chúng ta .
(Maria và Giuse đi dần tới hang đá ).
Dẫn : Giữa đêm đông giá lạnh của thành Belem, mọi người đều chối từ,
Giuse và Maria tìm đến hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vắng. Và chính nơi đây,
Con Thiên Chúa được hạ sinh. Giờ đây hợp lời với các thiên thần, chúng ta cùng
dâng lời tung hô VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI. BÌNH AN DƯỚI THẾ
CHO NGƯỜI THIỆN TÂM.
Múa : Tiếng hát Thiên Thần
Vũ khúc “Rộn Ràng NOEL" Thông Vi Vu
Dẫn kết:
Kính thưa cộng đoàn,
Giờ đây, chúng ta
hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu hài Nhi "là Đấng khai mở và kiện toàn lòng
tin" (Dt 12, 2): nơi Người mọi khổ đau và khát vọng của tâm hồn con người
được hoàn tất. Niềm vui yêu thương, câu trả lời trước bi kịch khổ ải và đớn
đau, sức mạnh của tha thứ khi bị xúc phạm, và chiến thắng của sự sống trước hư
không của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm Nhập thể,
mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng
quyền năng sự phục sinh của Người. Nơi Đấng đã chịu chết và sống lại để cứu
chuộc chúng ta, đã ngời sáng lên biết bao tấm gương đức Tin, in dấu trong suốt
hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta.
Nhờ lòng tin, tổ
phụ Áp-ra-ham đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi. Ông đã bỏ lại đằng sau lưng
tất để dấn thân theo Chúa, chấp nhận để cho Chúa hoạch định bước đường thương
lai của mình. Cũng chính vì tin mà lời hứa Thiên Chúa được thực hiện ngay từ
gia đình ông. Từ đây, Thiên Chúa chúc phúc cho I-xa-ác và nó sẽ trở thành những
dân tộc, vua chúa các dân tộc sẽ xuất phát từ I-xa-ác.
Nhờ Lòng
tin, Môsê sẵn sàng để cho Chúa hành động đưa dân Ít-ra-en ra khỏi
Ai-cập về lại đất hứa sống trong hạnh phúc và bình an.
Nhờ lòng tin, Đức
Maria đã đón nhận lời Thiên thần, và trong tinh thần vâng phục, Mẹ đã tin vào
lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên Chúa (Lc 1, 38). Mẹ đã sinh hạ Chúa
Giêsu, Đấng cứu tinh cho nhân loại.
Vậy, nhờ đức Tin,
chính chúng ta cũng đang sống: qua việc nhìn nhận một cách sống động Chúa Giêsu
đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong dòng lịch sử. Cùng với các
thiên thần, chúng ta hãy ra đi và laon báo rằng: VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN
TRỜI, BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG!
Lm.
Giuse Nguyễn Quốc Quang
Hoạt cảnh Canh Thức Mừng Lễ Giáng Sinh - Năm Đức Tin
CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu Kitô “là nguồn mạch và cùng đích của đức tin” (Dt 12, 2).
A. TỔNG QUÁT
* KHAI MẠC : Hát “Trời cao”- Tâm tình Mùa Vọng (Ca đoàn Giáo xứ)
* PHẦN 1: SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và phục vụ con người.
+ NHÂN VẬT: Ađam + Eva (G.L.V phụ trách)
Một số con vật, cây cối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… (Do các em Mẫu giáo Tuổi thơ hoá trang – các Dì phụ trách).
+ HÌNH THỨC : Ca vũ cảnh.
+ KHUNG CẢNH : Sân khấu để trống, chuẩn bị điện phối hợp ca cảnh.
+ THỰC HIỆN : Các Dì + G.L.V.
* PHẦN 2: Tổ phụ Abraham, mẫu mực đức tin: TRUNG THÀNH VÀ GẮN BÓ VỚI THIÊN CHÚA.
+ NHÂN VẬT : Giọng nói Thiên Chúa. Abraham, Sara, Isaác. 03 “Người của Thiên Chúa”.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm ba tiểu phẩm sau:
- Chúa gọi Abraham.
- Tiếp đón “Người của Thiên Chúa”
- Sát tế Isaác.
+ KHUNG CẢNH : cảnh vật tự nhiên, gia thất, đồi sát tế.
+ THỰC HIỆN : Gia trưởng và Hiền mẫu.
+ THÁNH CA PHỤ HOẠ : (Ca đoàn Hiền mẫu).
* PHẦN 3: ĐỨC MARIA: Gương mẫu Niềm Tin tuyệt vời.
+ NHÂN VẬT : Sứ thần, Maria, Giacaria, Êlisabet.
+ HÌNH THỨC : Hoạt cảnh, gồm 2 tiểu phẩm sau:
- Truyền tin.
- Thăm viếng.
+ KHUNG CẢNH : Cảnh gia thất Maria và Giacaria.
+ THỰC HIỆN : G.L.V.
+ THÁNH CA PHỤ HỌA : (Ca đoàn Gia trưởng).
* PHẦN 4: CHÚA GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
+ Nhân vật: Giuse, Maria, các Thiên thần, mục đồng.
+ Hình thức: ca cảnh, diễn điệu, gồm các tiểu vũ sau:
- Giuse và Maria dìu nhau đến hang đá Bêlem.
- Thiên Thần múa hát mừng Chúa Giáng Sinh.
- Các mục đồng thờ lạy Chúa.
+ THỤC HIỆN : Quý Dì, các em mẫu giáo Tuổi thơ, Lễ sinh, GLV.
B. NỘI DUNG CỤ THỂ
KHAI MẠC :
* LỜI GIỚI THIỆU :
Kính thưa Quý Tu sĩ, cùng toàn thể Cộng đoàn!
Năm 2012 là năm thứ nhất trong kế hoạch ba năm triển khai Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sau Đại Hội Dân Chúa 2010 để đào sâu và sống chiều kích Mầu Nhiệm của Giáo Hội.
Năm 2012 cũng là năm kỷ niệm lần thứ 50 khai mạc Công Đồng Vaticanô II.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã ấn định từ ngày 11/10/2012 đến 24/11/2013 là "Năm Đức Tin" nhằm giúp toàn thể Giáo Hội khám phá và đào sâu đức tin như hồng ân của Thiên Chúa để giới thiệu đức tin cách mới mẻ trong một thế giới ngày càng tỏ ra xem thường các giá trị của đức tin Kitô Giáo. (x.Thư Mùa Vọng 2012, ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn).
Ngày Chúa nhật 16/10/2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố thiết lập một “Năm Đức Tin” bắt đầu từ 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm Công Đồng Vaticanô II và 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý Chung của Hội Thánh Công Giáo.
Chúng ta sẽ bước vào Năm Đức Tin, do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vừa công bố trong Tông Thư “Cánh Cửa Đức Tin”.
Đức Thánh Cha viết: Trong thời điểm này, chúng ta cần phải chăm chú ngắm nhìn thẳng vào Đức Giêsu Kitô, “là nguồn mạch và cùng đích của đức tin” (Dt 12,2): nơi Người mọi lo âu và khát vọng của tâm hồn con người đều được thỏa mãn. Niềm vui của tình yêu, câu trả lời cho thảm trạng khổ sở và đớn đau, sức mạnh của tha thứ trước những xúc phạm phải chịu, và chiến thắng của sự sống trên sự trống rỗng của sự chết: tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm nhập thể của Người, trong việc Chúa làm người, trong việc Người chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng phục sinh của Người. Trong Người, là Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta, những gương đức tin đã ghi dấu hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta được đưa ra ánh sáng chan hòa. (x. Tông Thư “Cánh Cửa Đức Tin”, số 13).
Chúng ta tin một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Con Một của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời, đã sinh ra làm người bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chết trên Cây Thánh giá để chuộc tội chúng ta và đã sống lại vinh hiển, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Chúng ta tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, Ngài cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh giá “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần”, chúng ta ý thức mình tuyên xưng các mầu nhiệm cơ bản nhất trong đức tin Kitô giáo, là mầu nhiệm “Ba Ngôi Thiên Chúa”, và mầu nhiệm Thánh giá Chúa Kitô. Cả hai mầu nhiệm ấy đều là mầu nhiệm Tình yêu, vì như Thánh Gioan nói, “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 8). Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình yêu nội tại ở trong Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần yêu nhau mật thiết đến nỗi là Một với nhau. Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa Duy Nhất, dù không hề lẫn lộn với nhau. Thánh giá Chúa Giêsu biểu lộ cho chúng ta biết: Thiên Chúa muốn chia sẻ Tinh Yêu của Ngài cho chúng ta, mặc dù chúng ta là những kẻ có tội.
Tin vào Chúa Giêsu là tin Thiên Chúa là Tình Yêu và đã chia sẻ Tình Yêu cho chúng ta trong Chúa Giêsu, chính vì lẽ đó mà chúng ta hết sức hân hoan vui mừng. Niềm vui lớn nhất của cuộc đời chúng ta phát xuất từ niềm tin ấy. Tin Chúa Cha yêu thương chúng ta, đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Tin Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và đã chết vì ta, nhưng đã chiến thắng sự chết và đã sống lại cho chúng ta được sống. Tin Chúa Thánh Thần yêu thương chúng ta và ban Sự Sống cho ta, giúp ta gắn bó với Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
Tâm hồn chúng ta tràn trề Hy vọng, vì tin cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Các Ngài muốn cho chúng ta đạt đến mục đích cao cả nhất, cũng là mục đích cuối cùng của cuộc đời chúng ta, là được chia sẻ Tình yêu và Sự Sống vĩnh hằng của các Ngài. Nhưng để đạt mục đích ấy, chúng ta phải trải qua cuộc sống trần gian, đầy những sóng gió và thử thách.(x.Thư Mùa Vọng 2012, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc)
Sứ điệp ngày Truyền Giáo 2011, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI nhắn nhủ: Tin Mừng không phải là một món quà độc chiếm được ban cho ai đó, nhưng còn là một tặng vật cần được chia sẻ, một tin vui phải được loan truyền. Đây là trách nhiệm không chỉ uỷ thác cho một vài người, nhưng nhắm đến tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy”.
Trong Thư chung 2011, HĐGMVN ước mong “mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ triển khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp phần thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và hiệu quả”. Mỗi người tùy vị trí và khả năng, “hãy góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước chúng ta” (số 48).
Những lời giáo huấn trên đây hướng về chân lý: Thiên Chúa là Tình yêu, tình yêu ấy đã hướng tới việc phục vụ con người qua công trình sáng tạo vĩ đại, qua lịch sử Cứu độ và qua cuộc nhập Thể Cứu thế nơi Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta sẽ mừng kính Mầu nhiệm Giáng sinh của Ngài trong đêm nay.
Lần giở lại một vài đoạn Kinh thánh được diễn nguyện trong đêm Canh thức hôm nay, chúng ta cùng chiêm ngắm hai mẫu mực đức tin. Tổ phụ Abraham và Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tình yêu lời cảm mến tri ân, lòng hân hoan vui mừng nhân biến cố mừng Chúa Giáng sinh để ban Ơn Cứu độ cho chúng ta không chỉ trong Đêm cực Thánh này, không chỉ trong Mùa Giáng sinh hồng phúc, mà trong suốt hành trình của Giáo hội, trong suốt cuộc đời chúng ta.
Giờ đây, để cho đêm Hoạt cảnh – Canh thức được bắt đầu, Cộng đoàn chúng ta hãy hiệp lời cùng Ca đoàn để diễn tả tâm tình mong chờ Chúa đến.
* Cộng đoàn đứng lên, mỗi người thắp nến sáng đưa cao và cùng hát bài “Trời Cao”.
I. PHẦN MỘT : SÁNG THẾ: Thiên Chúa sáng tạo và chia sẽ hạnh phúc cho con người.
(Sân khấu để tối, chỉ cần đủ ánh sáng cho người dẫn).
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Câu đầu tiên của sách Sáng thế đã viết: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,1-2).
Vâng, khi Thiên Chúa chưa sáng tạo muôn vật, vũ trụ này chỉ là hư vô, trống rỗng, chỉ có một mình Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài không muốn gói gọn tình yêu trong Trái tim của Ngài, Ngài chỉ muốn mở Tình yêu ra, trao ban tất cả; mà sáng kiến đầu tiên của Tình yêu ấy là công trình tạo dựng trời đất muôn vật cách quyền năng và lạ lùng khôn tả. Sách Sáng thế ghi rằng: Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng và Thần khí để sáng tạo ra ánh sáng xoá tan đêm tối (Bật điện sáng), Người phân rẽ ánh sáng bóng tối (Tắt điện một chút rồi bật sáng ngày), Người tạo nên vũ trụ bao la với đầy đủ tinh tú (Bật các bóng trang trí), Người phân rẽ đất nước và sinh ra trên đó biết bao sinh vật (Các em hoá trang nhảy ra). Thiên Chúa thấy mọi sự rất tốt đẹp. Tuy nhiên, Thiên Chúa thấy vẫn còn thiếu một cái gì đó, Ngài nhìn muôn vật bơ vơ chưa có ai cai quản, Ngài liền nghĩ và thực hiện ngay ý định: “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như Chúng Ta để con người làm bá chủ chim trời, cá biển và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1,26); và thế là con người, tạo vật cuối cùng và cao trọng nhất đã được dựng nên để thay Chúa cai quản mọi vật (Ađam, Eva nắm tay nhau hạnh phúc bước ra trong làn nhạc êm). Và thế là công trình tuyệt diệu của Tình yêu đã hoàn tất. Đối với muôn vật, tình yêu của Chúa đã được phủ đều, tuy nhiên Tình yêu ấy hầu như được kết tụ nơi con người khi ban cho họ hai đặc ân tuyệt hảo đó là được giống Chúa, mang hình ảnh của Ngài và được cai quản muôn vật.
Như thế đấy, muôn vật, mọi trật tự kỳ diệu của vũ trụ và cả loài người cao trọng chúng ta đã được hình thành từ trong quyền năng và Tình yêu của Chúa. Tình yêu muốn được chia sẻ, Tình yêu để phục vụ. Chúng ta hãy hiệp cùng Ông bà Nguyên tổ, cùng muôn vật, vũ trụ hát lên lời ca tụng Chúa, cùng loan tin vui sáng tạo cho muôn người ở khắp mọi nơi.
* Vào vũ khúc: Muôn tạo vật ơi. (Thiếu nhi)
II. PHẦN HAI : Abraham, cha những kẻ tin.
* LỜI DẪN:
Thế rồi, theo lời Kinh thánh tường thuật, bản hoan ca phượng thờ của con người và muôn loài thụ tạo ở chốn địa đàng xưa dành cho Thiên Chúa tình yêu tưởng như là bất tận ấy đã mau chóng bị ngắt quãng mà nguyên nhân lại xuất phát từ phía con người – tạo vật lý tưởng của Thiên Chúa: nguyên tổ sa ngã, lòng ghen tương đố kỵ, tính ích kỷ, kiêu căng … đã đẩy con người đi vào con đường của ma quỷ: bội phản lại Thiên Chúa – Đấng vì yêu thương đã tạo dựng và phục vụ mình. Tuy nhiên, mặc cho con người tiếp tục dấn bước trên con đường bội phản, Thiên Chúa vẫn kiên trì tự mặc khải như một Đấng Thiên Chúa vô cùng chung thuỷ và thường hằng bất biến qua việc tuyển chọn và tinh luyện mà Ngài đã liên lỉ thực hiện dọc theo lịch sử Cứu độ để lôi kéo con người về lại với niềm tin đích thực.
Và trong dòng dõi bội phản, vẫn còn đó và sáng chói lên những khuôn mặt đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tinh luyện, để qua đó, Ngài làm sáng tỏ những mẫu gương Đức Tin vào Thiên Chúa thật tuyệt hảo cho muôn đời hậu thế dọc theo lịch sử Cứu độ. Chúng ta hãy chiêm ngắm Abraham, một mẫu gương niềm tin sáng chói bằng sự trung thành và gắn bó với Thiên Chúa giữa cuộc đời.
Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ắm con trẻ, ông thấy một tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già. Hai ông bà yên tâm an hưởng những ngày còn lại trên trần thế.
Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: "Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi ". Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan. Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại. Chúa phán: "Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta ".
Thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường, đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin của ông quả là vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23) và Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.
* VÀO HOẠT CẢNH :
a) MÀN 1: CHÚA GỌI ABRAHAM.
(Màn mở, cảnh cánh đồng với đàn súc vật, Abraham đang cầm gậy, đứng quan sát đàn súc vật, bỗng có ánh sáng loá từ trời, Abraham giật mình hoảng sợ, lùi lại vài bước và sụp quỳ xuống, dần dần ngước đầu lên nhìn về phía ánh sáng chói).
Tiếng Chúa: Abram! Abram!
Abraham: Dạ, dạ, …, tôi đây!
Tiếng Chúa: Abram hãy nghe đây, hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy và ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc!
Abraham: (Vẻ bất ngờ, ngơ ngác, bàng hoàng; ánh sáng lịm dần) – Vâng, tôi xin nghe, lạy Chúa! (Hấp tấp đứng dậy và vội vã lùa súc vật đi vào).
Lời dẫn: Bất ngờ, bàng hoàng, khó chấp nhận … nhưng thái độ của Abraham lại hoàn toàn ngược lại: Ông mau mắn hiểu ra Thánh ý tốt lành của Thiên Chúa – Đấng ông hằng tôn thờ mà thực thi không tính toán (Nhạc êm, Abraham cùng Sara, Lot, một số giai nhân, một số súc vật hồ hởi đi ra vẻ rất vui và háo hức. Cả nhà cùng đứng lại vẻ ngắm nhìn vùng đất, bỗng có tiếng gọi từ trời)
Tiếng Chúa: Abram, ngươi hãy coi, đây là phần đất mà Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi. Trên phần đất này, Ta sẽ là khiên thuẫn đỡ cho ngươi và dòng dõi ngươi.
Abraham: (Hấp tấp quỳ xuống, ngước mắt lên trời, mọi người làm theo) – Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì, con ra đi mà không có con cái? Chẳng lẽ kẻ gia nhân lại là người thừa tự của con hay sao?
Thiên Chúa: Không, kẻ đó không là người thừa kế mà là người do chính ngươi sinh ra mới là thừa kế của ngươi. Ngươi hãy nhìn lên trời mà xem, ngươi có đếm nổi hết số sao đó không, rồi đây, dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi biển, sẽ sở hữu phần đất này làm gia nghiệp. Trên phần đất này, Ta sẽ làm cho ngươi thành cha của nhiều dân tộc, Ta sẽ gọi ngươi là Abraham vì ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Hãy nghe đây, Ta là Thiên chúa toàn năng, ngươi hãy bước đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta, Ta sẽ cho ngươi trở nên đông thật đông, ngươi hãy tuân giữ giao ước của ta.
Abraham: (Cúi sấp mình xuống, mọi người cùng làm theo) – Lạy Thiên Chúa toàn năng, con tin và cảm tạ Ơn Người! (Mọi người ngẩng lên, đưa hai tay lên cao, ngước mặt lên trời).
b) MÀN 2: TIẾP ĐÓN NGƯỜI CỦA THIÊN CHÚA
(Màn mở, cảnh túp lều, một bụi cây, Sara ngồi trong lều, Abraham đang ngồi nghỉ mát nơi gốc cây, trong tiếng nhạc nền, bỗng có ba người chợt xuất hịên trước mặt Abraham).
Abraham: (giật mình, hốt hoảng đứng bật dậy, chạy vội ra và sụp lạy) – Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các Ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!
Ba vị khách: (Vẻ hân hoan) – Xin chào người công chính của Đức Chúa, xin Ông cứ làm những gì như ông vừa nói! (Vui vẻ ngồi vào các cục đá nơi gốc cây)
Abraham: (Hối hả chạy vào lều, vừa chạy vừa gọi): - Bà Sara ơi, người của Đức chúa đến viếng thăm chúng ta đây! (Abraham vào lều, nói vọng ra) – Bà mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi và làm bánh – (gọi tiếp) – Giai nhân đâu? – (Có tiếng thưa vọng ra) – Dạ! – Mau bắt một con bê sữa làm thịt ngay để nhà ta đãi khách quý! – Dạ!
(Trong tiếng nhạc, cảnh giai nhân chạy qua chạy lại tất bật, Abraham ngồi tiếp chuyện Người của Chúa, cảnh dọn cơm, ba người khách ngồi vào bàn, Abraham ngồi tiếp).
Abraham: (Xởi lởi) - Xin mời, xin mời, bữa cơm đạm bạc này xin được làm ấm lòng các vị, chúc các vị ngon miệng! – (Bốn người cụng ly, vui vẻ).
Người của Chúa: (Như chợt nhớ ra) – À, Abraham này, bà Sara vợ ông đâu rồi?
Abraham: Thưa các vị, nhà tôi hay ngại lắm, bà ấy ở trong lều.
Người của Chúa: (Dí dỏm) – Ông có tin hay không thì tùy, nhưng sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây, thì ông bà đã có một cu cậu con trai để bế rồi đấy! – (Cười)
Abraham: (Cười khẩy) – Các Ngài khéo đùa, tôi đã gần trăm tuổi, nhà tôi cũng đã là bà lão chín mươi, chuyện sinh đẻ ai lại dám mơ nữa!
(Bỗng văng vẳng tiếng cười khúc khích và tiếng nói vọng ra: Ôi dào, mình đã là một bà lão cằn cỗi, còn hưởng thú vui nữa sao? Ông ấy còn là một ông lão già nua, có mà chuyện lạ!)
Người của Chúa: (Nghiêm nét mặt) – Kìa Abraham, tại sao bà ấy lại không tin, lại cười chúng tôi mà nghĩ là người già mà sinh con có là chuyện lạ?
Abraham: (Ngạc nhiên, lúng túng, vẻ ngơ ngác)
Người của Chúa: Abraham, ông hãy nhớ một điều, Đức Chúa đã hứa với ông, mà Ngài thì luôn trung tín; vả lại, có điều gì kỳ diệu mà vượt được sức Đức Chúa hay không! Ông hãy nhớ kỹ điều này là: bằng giờ sang năm, khi chúng tôi ghé lại đây thì Bà Sara đã có cho ông một cậu con trai đấy, thôi, cơm no rượu say rồi chúng tôi xin phép ra đi! (lục tục đi)
Sara: (ra khỏi lều, vẻ ngại ngùng) – Xin các Ngài hãy lưu lại đã, lúc nãy có vị bảo là tôi cười, nhưng nào tôi dám cười!
Người của Chúa: Bà đã cười, bà hãy nhờ lời chúng tôi đấy nhé! Thôi, chúng tôi đi!
Cả hai ông bà: Vâng, tạ ơn Đức Chúa, kính chúc các vị bằng an (Hai người nhìn nhau trìu mến, màn đóng).
c) MÀN 3 : SÁT TẾ ISAÁC.
(Màn mở, cảnh túp lều, trời nhá nhem tối, Abraham ngồi bên ngoài như nghỉ ngơi, bỗng có ánh chớp loè, Abraham hoảng hốt, ngơ ngác).
Tiếng chúa: Abraham, Abraham!
Abraham: (Vội vàng quỳ sụp xuống) – Lạy Đức Chúa, này con đây!
Tiếng Chúa: Này Abraham, Ta rất hài lòng về ngươi, vì ngươi luôn giữ giao ước với Ta. Ta chỉ còn một việc duy nhất muốn ngươi làm đó là sáng sớm mai, ngươi hãy đem Isaác – đứa con mà Ta đã ban cho ngươi đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu, ở trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho ngươi!
Abraham: (Sụp ngồi xuống thất vọng) – Ôi, lạy chúa … (lại quỳ thẳng lên kiên quyết) – Vâng, lạy Đức Chúa, điều gì Đức Chúa muốn con xin thi hành! (Lại ngồi thụp xuống đau khổ, trời tối hẳn. Một lát sau, trời tảng sáng, tiếng gà gáy, có tiếng Abraham gọi trong lều)
Abraham: Bà ơi, Isaác ơi! Trời đã sáng rồi, dậy mau!
Sara: (Vẻ ngái ngủ) – Sao hôm nay ông lại dậy sớm thế!
Abraham: Dậy đi bà ơi, con trai ơi, tối hôm qua, Đức Chúa đã muốn tôi cùng Isaác đi tế lễ cho Người!
Sara: Vậy à, tôi dậy đây – (Gọi vọng) – Isaác ơi, dậy đi con, hôm nay con được cùng cha đi tế lễ cho Đức Chúa đấy!
Isaác: (Vẻ rất tỉnh) – Ôi, vậy à, con sướng quá, hôm nay thế là đã được đi tế lễ cùng cha rồi!
(Có tiếng Abraham thở dài, tiếng lục đục một lúc, trời tảng dần, Abraham cầm con dao cùng Isaác đeo bó củi bước ra. Abraham vẻ buồn rười rượi, Isaác vui vẻ vô tư, Sara bước ra có vẻ lo lắng vì thấy chồng không vui).
Sara: Ông ơi, sao hôm nay ông có vẻ hơi lạ, ông mệt à, hay là để tôi cho gia nhân đi cùng ông!
Abraham: Thôi bà, có gì đâu! Tôi đi đây – (Cao giọng) – Ta đi thôi con trai!
Isaác: Vâng! (ngoảnh lại) – Con đi mẹ nhé!
Sara: Được rồi, hai cha con đi bằng an! (Hai cha con vẫy chào đi thẳng, Sara vẫn đứng nhìn theo chưa hết vẻ lo ngại, cảnh dừng).
Dạo đàn và hát bài: tổ phụ Abraham sát tế con trai.(Hậu trường chuẩn bị sân khấu phần tế lễ Isaac).
(Sân khấu tối một chút rồi sáng hẳn, cảnh tự nhiên, đã có một bàn thờ kê sẵn, hai cha con đang xếp củi lên bàn thờ, Abraham cặm cụi làm vẻ đau khổ, Isaác ngược lại hết sức vui vẻ, vô tư).
Isaác: Cha ơi, mình xếp củi xong rồi nhưng con có thấy lễ vật đâu Cha? – (Cười dí dỏm) – Không lẽ cha chỉ đốt củi xông khói cho Đức Chúa thôi sao! – (Giật mình vì thấy Cha sầu não, vội chuyển thái độ ân cần) – Cha, con xin lỗi vì đã vô ý đùa với Cha! Nhưng mà … nhưng mà sao hôm nay con thấy cha có vẻ gì … kỳ lạ lắm! Cha, cha có chuyện gì buồn, hay cha không khoẻ, hay cha đang giận con … hả cha?
Abraham: (Nhìn con trìu mến) - !!!
Isaác: (Vẻ lấy lòng) – Cha, con chỉ đùa có tí thôi mà, cha đừng giận con nữa nhé, thôi bây giờ để con chất nốt mấy cây củi này nữa là xong, rồi cha con ta đi bắt lấy một con dê núi làm của lễ cho Đức Chúa! (Cúi xuống nhặt củi).
Abraham: (Thả dao, ôm chầm lấy con) – Isaác con ơi, cha chẳng buồn con đâu, cha cũng chẳng đau bệnh gì hết, cha rất thương con vì con là cả cuộc đời của cha! Nhưng con ơi, hôm nay, Thánh ý của Đức Chúa là muốn cha dùng con làm của lễ toàn thiêu kính dâng lên Ngài …!
Isaác: (Hoảng sợ, dẫy ra khỏi tay cha, lùi lại hai ba bước) – Cha! …
Abraham: (Đau khổ, nói trong nước mắt) – Con yêu, cha thương con hơn bản thân cha – (Bước đến ôm con) – nhưng ý của Đức Chúa làm sao cha dám làm trái lại. Con ơi, Cha rất thương con, thương con lắm nhưng cha phải vâng lệnh Đức Chúa thôi con ơi!
(Abraham khóc nức lên, Isaác rời khỏi tay cha, lùi lại vài bước nữa rồi quỳ sụp xuống. Abraham với lấy con dao tiến vài bước đến gần Isaác lưỡng lự, sau đó dứt khoát vung dao lên, bỗng có ánh sáng chói loà, tiếng Thiên Chúa vang lên dứt khoát)
Tiếng Chúa: Abraham, Abraham, hãy dừng ngay lại!
(Abraham giật mình dừng tay, còn để nguyên vị trí, hai cha con ngước lên trời ngơ ngác)
Tiếng Chúa: Ngươi đừng giơ tay làm hại đứa trẻ, đừng đụng đến nó! Bây giờ Ta đã biết ngươi là kẻ hết lòng kính sợ Đức Chúa. Đối với Ta, đến đứa con đầu lòng duy nhất mà ngươi cũng chẳng tiếc. Hãy nghe đây, hỡi Abraham, vì ngươi đã làm điều đó nên Ta sẽ lấy Danh Ta mà thề rằng: Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông như sao trên trời, như cát bãi biển, dòng dõi ngươi sẽ chiếm được các thành trì của giặc. Mọi dân tộc trên địa cầu này sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi ngươi đã vâng lời Ta!
(Tiếng Chúa dứt, hai cha con bàng hoàng một lát rồi ôm chầm lấy nhau sung sướng, bỗng có tiếng dê kêu, hai cha con cùng chạy đi và quay lại với con dê trong tay, đặt dê lên đàn tế lễ, châm lửa rồi quỳ sụp xuống)
Hai cha con: Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chúng con tạ ơn Ngài! (Màn đóng).
III. PHẦN III : ĐỨC MARIA: MẪU MỰC ĐỨC TIN
* LỜI DẪN :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta vừa chiêm ngắm Abraham – Tổ phụ dân tộc Thánh, dân riêng của Chúa. Abraham đã nêu cho chúng ta gương mẫu một ĐỨC TIN TUYỆT HẢO: Ông luôn tín thác, tin tưởng và trung thành với Đức Chúa – Đấng đã làm cho ông biết bao điều kỳ diệu. Ông đã được mệnh danh là “Cha các kẻ tin”. Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Đi dọc Lịch sử Cứu độ, chúng ta còn được chiêm ngắm biết bao gương mẫu nữa nơi các Tổ phụ Israel, như Maisen, như các thủ lãnh, Các Vua Do thái … và, vào thời viên mãn, chúng ta cũng sẽ được chiêm ngắm một mẫu gương tuyệt vời nữa nơi Đức Maria – người nữ tì của Thiên Chúa – bóng dáng của Lời hứa Cứu độ. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là “người diễm phúc vì Mẹ đã tin” (Lc 1,45).(x. Cánh Cửa Đức Tin số 14). Đức Maria đã nên gương mẫu ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG cho chúng ta như thế nào, hai đoạn hoạt cảnh ngắn sau đây sẽ chỉ ra cho chúng ta một bài học ĐỨC TIN thật quý giá.
* MÀN 1: TRUYỀN TIN
(Cảnh nội thất, Maria đang ngồi bên bàn đọc sách vẻ chăm chú, nhạc du dương êm đềm. Bỗng ánh chớp loà, ánh sáng quay cuồng, một Thiên thần xuất hiện uy nghi trước mặt Maria; Maria bàng hoàng, thả sách, đứng bật dậy lùi lại vài bước…)
Thiên thần: (Trịnh trọng chắp tay) – Kính chào trinh nữ đầy ân sủng! Trinh nữ hãy vui mừng lên vì Thiên Chúa luôn ở cùng trinh nữ!
Maria: (Từ sợ sệt ra bối rối) – Người … người là… ai, và … lời chào vừa rồi của người có ý gì mà phận nữ nhi của tôi không thấu hiểu được!
Thiên thần: Hỡi Trinh nữ Maria, xin đừng sợ! Ta là Thiên sứ Gabriel của Thiên Chúa; Ta được sai đến để báo cho Trinh nữ một tin vui mừng trọng đại: Trinh nữ rất đẹp lòng Thiên Chúa! Và này đây Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh một con trại, đặt tên là Giêsu! Chính Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít Tổ phụ, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!.
Maria: (Ngạc nhiên, bối rối hơn) – Thiên sứ đáng kính, việc mà Thiên sứ vừa nói xảy ra thế nào được, vì phận nữ tôi tuy đã đính hôn với Giuse nhưng nào đã biết đến việc vợ chồng?
Thiên thần: Trinh nữ hãy an tâm, người con mà trinh nữ sẽ cưu mang không bởi huyết tộc của Giuse, người bạn trăm năm của trinh nữ đâu!
Maria: Vậy thì chuyện Sứ thần nói càng không thể có!
Thiên thần: Không, có đấy! Chính Thánh thần sẽ ngự xuống trên Trinh nữ và quyền năng của Đức Chúa tối cao sẽ rợp bóng trên Trinh nữ. Vì vậy, Đấng mà Trinh nữ cưu mang và sinh ra chính là Đấng Thánh, là Con thiên Chúa!
Maria: Nhưng … !
Thiên thần: (Cắt ngang) – Trinh nữ hãy an tâm và vững tin! Kìa bà Elisabét, người chị họ của Trinh nữ tuy đã già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai. Người đã từng mang tiếng là hiếm hoi, vậy mà đã mang thai sáu tháng rồi! Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Từ từ quỳ gối, còn do dự, lo lắng …)
Thiên thần: Trinh nữ thân yêu, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được!
Maria: (Tự tin hơn, ngẩng lên nhìn Thiên thần) – Vâng, phận tôi là nữ tì bất xứng! Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Thiên thần vừa nói! (Cúi đầu, cung kính).
(Nhạc nổi du dương, Thiên thần cung kính cúi chào Maria rồi biến đi trong ánh chớp, Đức Maria thinh lặng)
* MÀN 2: THĂM VIẾNG.
Lời dẫn:
Trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ Maria đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối tăm gập gềnh. Xin Vâng là để cho Chúa sử dụng con người mình, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ. Nếu Đức Maria chấp nhận ý Thiên Chúa, chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa ngay khi chưa về chung sống với thánh Giuse, thì Mẹ cũng phải chấp nhận những hậu quả xảy ra sau đó. Có thể đã có những hiểu lầm suýt gây tan vỡ, nhưng quan trọng hơn cả là từ sau lời Xin Vâng đầu tiên, Đức Maria hiểu rằng tình yêu giữa mình và thánh Giuse đã đổi khác. Mẹ được mời gọi để dâng hiến trọn vẹn con người mình - cả hồn lẫn xác - cho Thiên Chúa, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, cho Đức Giêsu Con Mẹ.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong lòng Mẹ. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Chúng ta nhìn ngắm Con Thiên Chúa lớn lên từ từ như bao thai nhi khác. Cần 9 tháng 10 ngày để có thể mở mắt chào đời, cất tiếng khóc hạnh phúc.
Cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, hồng ân ấy thôi thúc Mẹ hân hoan và mang niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai. …”Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." (Lc 1,39-45).
“Đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6) trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14).
Đức tin đi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều thì đức tin càng mạnh. Làm thế nào chúng ta có thể yêu mến Chúa, nếu chúng ta không dành thời giờ để tìm hiểu về Chúa qua Kinh Thánh, qua sự cầu nguyện, qua sách báo hay qua các phần thuyết giảng? Và khi yêu mến Chúa, chúng ta phải cố gắng thực hành lời Chúa vì Chúa Giêsu đã nói "ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy", và điều Chúa mong muốn là "anh chị em hãy yêu mến nhau, như Thầy yêu mến anh chị em".
Hát bài: vì yêu Isave (múa phụ họa).
(Cảnh nhà Giacaria. Giacaria đang thẩn thơ quanh sân, Maria đi vào)
Maria: (Cao giọng) – Ôi, anh Giacaria! Nghe tin anh chị có tin vui nên em vội vã lên thăm đây!
Giacaria: (Vẻ mừng rỡ, chỉ diễn tả bằng tay và nét mặt vì bị câm) …
Elisabet: (Từ trong nhà chạy ra, vẻ mừng rỡ, bỗng chững lại xoa bụng ngạc nhiên) – Ôi, Maria, em của chị!
Maria: (Ôm choàng lấy Êlisabet) – Maria, em là người thật có phúc giữa các người phụ nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc!
Maria: (Ngại ngùng) – Kìa, chị nó gì vậy?
Êlisabet: (Cầm chặt tay Maria, rạng rỡ, xúc động) – Chị nói thật lòng đấy, chị cũng thật diễm phúc! Bởi đâu chị được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm? Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi đã nhảy mừng trong lòng chị! Em thật có phúc vì đã luôn tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em! (Cười sung sướng và gật đầu dí dỏm với Giacaria)
Giacaria: (Cười vui vẻ, ra hiệu rồi đi vào nhà)
Maria: Chị ơi, em thật hạnh phúc vì phận em hèn mọn mà Đức Chúa vẫn thương tuyển chọn. Không biết rồi đây em phải làm sao cho xứng đáng?
Êlisabet: Em không phải lo, Đức Chúa đã chọn em, Ngài sẽ lo lắng mọi sự cho em thôi!
Maria: Ôi, em sung sướng quá, sung sướng cho cả chị! Thôi, Chị ơi, Đức Chúa đã thương chị em ta, Ngài không kể đến phận hèn mọn của chị em ta, chị em ta hãy dâng lên Ngài lời tri ân và ngợi khen chị nhé!
(Hai chị em nhìn nhau trìu mến, quỳ xuống ngửa mặt lên, nghiêm trang sốt sắng hát kinh Magnificát)
Maria: (Đến nâng Êlisabet dậy) – Thôi, dậy đi chị, chị em ta cùng vào nhà xem anh Giacaria làm gì để đãi chị em ta!
Êlisabet: (Như chợt nhớ ra điều gì) – Thế em định ở chơi với chị có lâu không?
Maria: (Cười dí dỏm trêu) – Đã sợ tốn cơm à? Em nghe Thiên thần báo tin là chị đã có thai sáu tháng rồi, chị đã lớn tuổi, anh Giacaria lại lâm căn bệnh khó hiểu … nên em đã xin anh Giuse cho em lưu lại giúp đỡ chị cho tới lúc chị mãn nguyệt khai hoa thì em xin về!
Êlisabet: Đúng em là người của Thiên Chúa, chị cám ơn em nhiều lắm. Thôi ta đi vào thôi!
(Hai chị em dìu nhau vào nhà trong nền nhạc).
IV. PHẦN 4 : CHÚA GIÁNG SINH: ĐỈNH CAO CỦA NIỀM TIN
* LỜI DẪN :
Kính thưa cộng đoàn!
Cách đây 2012 năm, một Hài Nhi rất đặc biệt được sinh ra. Người là Thiên Chúa – Thiên Chúa trở thành con người. Hài nhi này là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng Thiên Chúa được ra đời không phải là chốn cung vàng điện ngọc. Người được sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Người đã trải qua những điều kiện và những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tin mừng Lc 2,1-20, kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
1) Một biến cố tầm thường nhất :
Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse, Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo. Ở đó không có chỗ trống cho tình người. Hai ông bà đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem, trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai. Bà đặt con trẻ trong máng cỏ. Bạn hữu thân nhân chẳng có ai. Chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng. Sự kiện chỉ có thế. Thật đơn giản.
2) Một biến cố vĩ đại nhất.
Thế nhưng, em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên Sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần, trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Ngài. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo, sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang.
Bởi vậy, biến cố Giáng sinh hôm nay bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nổi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? Một sự kiện táo bạo, táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được,Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình,và Thiên Chúa Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngõ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo.
Giáo hội chúng ta suốt hơn 2000 năm qua luôn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc vào mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu.
Đã là mầu nhiệm thì con người chẳng có thể nào suy cho cùng được. Nhưng mầu nhiệm cao vời lại không phải là một cách cửa đóng kín không cho ai bước vào; mà ngược lại, mầu nhiệm đức tin Kitô giáo luôn là một mầu nhiệm của mạc khải, nghĩa là một chân trời bao la, mời gọi, rộng mở để con người có thể mặc sức tung hoành, khám phá mà không bao giờ có thể tát cạn được. Có thể nói được mầu nhiệm là một sự phong phú tự bản chất, nghĩa là luôn sống và luôn triển nở mà khi nào không còn phong phú và triển nở nữa thì mầu nhiệm cũng không còn là mình nữa.
Như thế, mầu nhiệm nhập thể cũng thực sự là chân trời bao la của hành trình yêu thương; hành trình “mầu nhiệm”, nghĩa là hành trình không bao giờ có thể hoàn tất nhưng luôn phong phú và mở ra mãi.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với thế gian trong cung lòng Trinh nữ Maria. Ngôi lời đã sinh ra làm người và ở giữa chúng ta.
Giờ đây, kính mời cộng đoàn cùng chiêm ngắm Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa và hãy xác định thái độ sống Đạo hôm nay của mình như thế nào ở giữa thế gian dựa theo những tiểu phẩm hoạt cảnh sau đây.
* VÀO HOẠT CẢNH.
(Màn đêm bao trùm cảnh vật. Khung cảnh thành Bêlem hiện ra. Giuse tay cầm gậy, đeo hành trang trên vai. Đi sau là Maria đang nặng nề cất bước).
Giuse: Maria trông kìa: Bêlem kinh thành vua Đavít. Ta tiến vào để cho kịp ghi tên. Chiếu chỉ vua nào dám trái lệnh trên, phải đăng kí khắp mọi miền đất nước! (Quay lại Maria) – Maria! Chắc đường xa mình đã mệt.
Maria: Giuse ơi! Tới đâu rồi anh nhỉ! Lữ quán nào ta đến để nghỉ chân. Đường đi xa, mệt mỏi khắp châu thân, và có lẽ… như đã gần… anh ạ!
Giuse: (Giật mình lo ngại) – Ôi! Lạy Chúa! Đường xa xôi vất vả, lại đến ngày mình mãn nguyệt khai hoa, giữa đêm đông giá buốt lại không nhà, tìm đâu được chỗ cho nàng trú ngụ (Im lặng trầm tư trong chốc lát) – Kìa, lữ quán xa xa ta đến liều hỏi thử (đưa tay chỉ) – Chỉ mong rằng được lưu ngụ qua đêm! (Cả hai người dìu nhau tới gõ cửa lữ quán, cửa mở, chủ quán bước ra, vẻ đon đả).
Chủ quán 1: Ồ, hân hạnh, thật hân hạnh, xin chào ông bà! Chắc ông bà cần quán trọ?
Giuse: Xin chào ông, chúng tôi là lữ khách, đường đi xa đêm tối lại không nhà, xin rộng lòng giúp đỡ bước can qua, cho trú tạm trong nhà qua đêm vắng.
Chủ quán 1: (Khoác lác, vừa nói vừa làm cử điệu) – Quán của tôi có tên là ánh sáng, cứ bước vào sang trọng lắm đi thôi, mọi tiện nghi có đầy đủ khắp nơi. Khỏi lo sợ, khỏi ngại ngùng băng giá. Quán của tôi khắp vùng đều biết cả, mấy hôm nay khách tất cả về đây mà hễ đến là có chỗ ở ngay! (Cười hề hề) – Nhưng… cũng phải có đầy túi bạc!
Giuse: Thưa ông chủ quán… chúng tôi xin ông… (ngập ngừng).
Chủ quán 1: (Ngắt lời, chăm chú ngắm nhìn hai ông bà từ đầu đến chân rồi lắc đầu bĩu môi) – Ồ, không được, không được! Ông có biết là kinh thành ánh sáng, lữ quán đây dành cho kẻ có tiền, chứ ông bà kẻ đói khó nghèo hèn, sao cả dám mon men mà gõ cửa… Thôi! Đi đi, đi mà kiếm nơi khác!
Maria: (Tiến lên một bước nói xen vào) – Ông chủ quán, xin làm ơn giúp đỡ…
(Chủ quán không trả lời, đóng ập cửa lại. Giuse và Maria lủi thủi đi ra không ai nói với ai lời nào. Bước sang quán thứ hai gõ cửa).
Chủ quán 2: (Mở cửa bước ra xum xoe đon đả) – Xin chào ông bà! Quý hoá quá, mời ông bà vào quán trọ chúng tôi! Quán chúng tôi lừng tiếng khắp nơi nơi, đã tìm đến không thể rời chân bước!
Giuse: Bà chủ quán! Giữa mùa đông giá buốt, bà làm phúc cho trú tạm đêm nay, ơn cao dày ghi khắc mãi từ đây, xin mở rộng lòng nhân từ giúp đỡ…
Chủ quán 2: (Nói kéo dài giọng, nguýt mắt, hai tay chống nạnh) – Ôi dào, vậy mà tôi cứ ngỡ ông bà đây là những kẻ có tiền… trời ơi! Nhìn đói khổ thế này, mà dám đến làm phiền, lếu láo thật, đi! Đi liền cho khuất mắt! (Giuse và Maria cúi đầu lủi thủi bước ra, Giuse ngao ngán ngước mắt nhìn trời, giọng tư lự)
Giuse: Đêm thanh vắng, bốn bề sương giá buốt, đường gập ghềnh thêm mỏi bước chồn chân. Thương cho nàng, lòng tôi thật phân vân, ngày mãn nguyệt lại trăm phần đau khổ… (Nhìn Maria âu yếm, lo lắng) – Trong kinh thành không tìm ra chỗ trọ, nơi hoang vu nào biết ngỏ cùng ai (Ngước mắt nhìn lên trời xướng cao giọng) – Cảnh khốn cùng xin trợ giúp Chúa ơi!
Maria: Này anh ơi, ta hãy kíp đi thôi, đằng xa ấy hình như là ánh sáng (Đưa tay chỉ về phía hang đá).
Giuse: (Nhìn theo hướng Maria chỉ) – Ồ, đúng rồi! Cánh đồng xa bát ngát! Xa xa kia, từng ánh lửa lập loè, trẻ mục đồng chắc đốt lửa đêm khuya, để sưởi ấm giữa bốn bề sương tuyết.
Maria: Thôi nhanh lên! Trong mình tôi cảm biết, sắp đến rồi, giờ mãn nguyệt khai hoa. Hang bò lừa ta trú ngụ làm nhà, cho qua khỏi giờ khai hoa mãn nguyệt.
Giuse: Nào ta đi thôi. (Giuse dìu Maria từ từ vào hậu trường trong tiếng gió rít).
* LỜI DẪN NỐI :
Kính thưa Cộng đoàn!
Chúng ta không nên để ý nhiều đến thái độ của những người đại diện cho dân Israel, cũng chỉ nên đồng cảm và trầm lắng lòng mình lại một chút thôi trước hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã của Thánh gia Nazarét trên cánh đồng Bêlem năm xưa… chúng ta hãy để tâm trí chúng ta đi ngược thời gian, đi đến tận thành Bêlem xa xôi của xứ Palestin năm xưa để cùng say sưa với vũ trụ, với muôn loài, với Israel, với toàn nhân loại và với muôn ngàn Cơ binh Thiên quốc trong niềm hân hoan sung sướng vì Ngôi Lời – Đấng Cứu độ của chúng ta đã Giáng sinh – Tin mừng trong đại của muôn dân.
(Bật điện hang đá, giật chuông, tấu nhạc, phát tiếng khóc của trẻ sơ sinh, có thể mời Cộng đoàn đứng, vỗ tay).
* Vũ khúc Thiên thần.
* Múa Giáng Sinh.
VI. LỜI KẾT :
Kính thưa cộng đoàn!
Phần hoạt cảnh mà chúng ta vừa theo dõi trong đêm canh thức mừng Chúa Giáng sinh năm nay, hướng chúng ta về hai mẫu mực đức tin trong Thánh Kinh. Tổ phụ Abraham thời Cựu ước và Đức Maria thời Tân ước.
Tin là đáp lại một tiếng gọi để vươn xa hơn, cao hơn chính bản thân; là bước đi rộng hơn lãnh vực khả giác, khả tri và khả nghiệm.
Tin là một thái độ của con người toàn diện quyết định vượt xa hơn mọi thực tại hữu hình, mọi lý luận phàm trần, để dấn thân trọn vẹn cho một lẽ sống mới, trong tương quan huyền nhiệm với Đấng Tuyệt Đối.
Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).
Đối với Kitô giáo, đức tin mang một tính chất lịch sử đặc biệt, vì Lời của Thiên Chúa đã thực sự trở thành Ngôi Lời, sống giữa nhân loại (x. Ga 1, 9-10). Vì thế, tin có nghĩa là tin ở, tin vào Đức Kitô. “Những ai đón nhận và tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga, 1, 12), nghĩa là ngay từ đời này người tín hữu đã được tham dự vào nguồn sống vô biên của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô. (x. Ga 3, 16.36). Do đó mà Thánh Phaolô đã xác quyết một cách mạnh mẽ: “Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1, 12). Đó là một đức tin hoàn toàn sáng suốt và chắc chắn đối với chính mình. Hơn nữa, trong Đức Kitô, những kẻ tin Người “được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13, 11). Thực sự họ “đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1Cr 1, 5). Đó mới là sự hiểu biết vượt trên mọi hiểu biết, đưa con người đến ơn cứu độ muôn đời.
Và giờ đây Giáng Sinh đã đến. Niềm vui đã oà vỡ trong tim của mỗi người chúng ta. Một niềm vui thánh thiện, sâu lắng vì chúng ta thật sự đã cảm nhận được thế nào là vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta, thế nào là Giêsu cứu thế, thế nào là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một, để ai tin vào Con cùa Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Quả thật với mỗi người chúng ta đêm nay, niềm vui Giáng Sinh, Phụng vụ Giáng Sinh không phải chỉ là một lễ hội bình thường, mà là một Tin Mừng đích thực như Tin Mừng mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thuở xưa nơi đồng vắng Bêlem: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đavít, Đấng Cứu thế đã giáng sinh…”.
Giờ đây, chúng ta hãy hiệp cùng các em thiếu nhi lời reo mừng, lòng hân hoan mừng Chúa Giáng sinh 2012 với tất cả lòng tin và mến yêu.
VII. Kiệu Chúa Hài Đồng
VIII. Kiệu đến trước lễ đài, đặt Chúa Hài Đồng vào máng cỏ, bắt đầu thánh lễ ĐÊM GIÁNG SINH.
CANH THỨC GIÁNG SINH 2012
NĂM ĐỨC TIN: GẶP CHÚA TRONG NIỀM HÂN HOAN, HẠNH PHÚC
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
I.Chủ sự : làm dấu
Thánh Giá
a.Người dẫn giờ Canh
Thức sẽ hướng dẫn cộng đoàn bằng những lời sau :
Năm nay toàn thể Giáo
Hội đang sống trong năm đức tin, với niềm tin sâu sắc, chúng ta họp nhau nơi
đây để canh thức Giáng sinh. Suy nghĩ về mầu nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh
làm người, người Kitô hữu sẽ nhận ra: Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân
loại bằng việc sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô nhập thể trong cung lòng Đức
Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Đây là mầu nhiệm sáng tạo tuyệt vời
của Thiên Chúa. Chúng ta cúi đầu phủ phục trước mầu nhiệm tình yêu cao vời của
Thiên Chúa.
b.Rước Tượng Chúa Hài
Đồng ( Chủ sự và các chú giúp lễ ).
c.Một người đọc lời cầu
của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI :
Lạy Chúa là Cha chúng
con,
Cha đã yêu thương con
người
Đến độ gởi đến cho
chúng con
Người Con độc nhất của
Cha là Đức Giêsu,
Sinh
bởi Đức Trinh Nữ Maria,
Để
cứu thoát chúng con
Và
để đưa chúng con về với Cha.
Chúng
con cầu xin Cha,
Chúc
lành cho bức tượng Chúa Giêsu này
Sắp
đến giữa chúng con,
Để
trở thành dấu chỉ sự hiện diện của cha
Dấu
chỉ của tình yêu Cha
Trong
các ngôi nhà chúng con đang ở.
Lạy
Cha rất nhân lành,
Xin
cũng chúc phúc cho chúng con,
Cũng
như cho cha mẹ,
Cho
các gia đình và bạn hữu chúng con.
Xin
Cha hãy mở rộng tâm hồn chúng con
Để
cho chúng con biết
Vui
mừng đón nhận Đức Giêsu,
Luôn
làm điều Người yêu cầu
Và
nhận ra Người trong tất cả những ai
Đang
cần chúng con yêu mến.
Chúng
con cầu xin Cha
Nhân danh Đức Giêsu,
Là Con chí ái của Cha,
Là
Đấng đến ban tặng bình an cho thế giới.
Người
là Đấng hằng sống hằng trị
Đến
thiên thu vạn đại. Amen.
e.Làm phép tượng Chúa
Hài Đồng Giêsu
f. Vũ điệu Noen về (
tưng bừng, rộn ràng trong ánh sáng lung linh ).
II.ƠN CỨU ĐỘ CHỨA CHAN
NƠI NGƯỜI :
Giáng sinh là một biến
cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh
thánh : Hài nhi Giêsu chính là món quà vô giá Thiên Chúa tặng ban cho nhân
loại.Thánh Gioan viết : “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một để
những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời “ (
Ga 3, 16 ). Chúa Giêsu nối kết trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài
người. Đây là Tin Mừng vĩ đại và là một mầu nhiệm của tình yêu, và là mầu nhiệm
của lòng tin.
Chúa mời gọi chúng ta
trở về với Máng cỏ đơn sơ, khó nghèo. Đó là sự chọn lựa của Ngài. Trong ánh
sáng lung linh của vinh quang Thiên Chúa : vinh quang của sự khiêm nhường và
tình yêu. Vinh quang của Thiên Chúa là sự bình an. Bởi vì nơi Chúa ơn cứu độ
chứa chan.Nơi Con Một Thiên Chúa là Chúa Giêsu, ân sủng của Thiên Chúa được
biểu lộ cho tất cả mọi người.
- Vũ điệu : Màn đêm lung linh ( tưng bừng vui nhộn ).
III.CHÚA GIÊSU ĐƯỢC
TRAO BAN CHO TẤT CẢ CHÚNG TA :
Mầu nhiệm Giáng sinh
dạy cho tất cả chúng ta :’ Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta và chúng ta là
anh chị em với nhau “. Lễ Giáng sinh mời gọi chúng ta hãy quan tâm tới những
người nghèo như tin Mừng Giáng Sinh đã được loan báo đầu tiên cho những ngưởi
nghèo và chính những trẻ nghèo, vô học, cùng cực đã gặp được Hài Đồng Giêsu Cứu
Thế.
Hôm nay Chúa Giêsu được
sinh ra cho tất cả mọi người, cho tất cả chúng ta. Ở Bêlem, Đức trinh Nữ Maria
đã trao ban cho các mục đồng chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu khi họ được các sứ thần
loan báo tin vui thì ngày hôm nay, Giáo Hội cũng giới thiệu Chúa Giêsu cho toàn
thể nhân loại để bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào trên thế giới này cũng có thể cảm nghiệm sâu xa Con thiên
Chúa giáng sinh làm người để ban bình an, tình yêu và ân sủng cho con người
đúng như lời các thiên thần khi xưa hát vang trên không trung :
“ Vinh danh Thiên Chúa
trên trời
Bình an dưới thế cho
người thiện tâm “ ( Lc 2, 14 )
Vâng, đức tin của chúng
ta phải được đào sâu, chúng ta mới nhạy cảm và nhận ra mầu nhiệm thật cao sâu :
Con -Thiên -Chúa -làm -người . Xin cho mỗi người Kitô hữu luôn biết tìm gặp Chúa,
nhận ra Người và đi theo Người. Do đó,
năm đức tin rất cần thiết cho mỗi người tín hữu bởi vì chỉ có đức tin người
Kitô hữu mới hiểu ra rằng tình yêu của Thiên Chúa thật vô cùng cao quí. Tình
yêu nối kết con người với Thiên Chúa.
Trong tâm tình ấy, tất
cả chúng ta hãy có thái độ khiêm nhu, hoán cải, đổi mới để đón nhận Mầu Nhiệm
Giáng Sinh và mừng lễ Giáng Sinh. Xin cho buổi Canh Thức Giáng Sinh tối nay đem lại cho chúng ta những
tâm tình đạo đức, thánh thiện để chúng ta cùng chung một tình thương, hiệp nhất
mà đón mừng lễ Giáng Sinh một cách sốt sắng và nhất định chúng ta phải gặp được
Hài Đồng Giêsu như các mục đồng.
*Hát : Đêm Thánh hay
Trời Hân Hoan
*Kiệu Chúa Hài Đồng đặt
vào Hang Đá ( xông hương Chúa Hài Đồng )
*Thánh lễ Giáng Sinh
năm 2012.
GIÁNG SINH “CỬA ĐỨC TIN”
1. DẪN VÀO GIỜ CANH THỨC :
Hát : Cầu
xin Chúa Thánh Thần.
Anh chị em rất thân yêu,
Trong Đêm cực thánh này,
cùng với Giáo Hội toàn cầu, chúng ta hân hoan kỷ niệm và mừng đón Ngôi Lời làm
người ở giữa chúng ta. Đây là biến cố Thiên Chúa đích thân đi vào lịch sử loài
người để khởi sự việc hoàn tất CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ nhân loại. Nhưng thực tế lịch
sử hôm qua cũng như hôm nay, con người cách chung vẫn không nhận biết và không
đón nhận được TIN MỪNG này. Thậm chí nhiều Kitô hữu đã chối bỏ. Vì thế, trong
giờ canh thức này chúng ta hãy cầu nguyện để có thể bước qua CÁNH CỬA ĐỨC TIN
mà gặp gỡ được NGÔI LỜI NHẬP THỂ không chỉ là trong hang Belem xưa mà trong
chính tâm hồn chúng ta.
Hát : Này
Dân Sion (Nguyễn Khắc Xuyên)
ĐK. Này dân Sion, Chúa
ngươi sắp tới. Ngươi hãy ra chào đón Chúa đến cứu dân Người.
1. Ai đã vào sa mạc xem
ngàn lau phất phới? Ai đã lên đồi vắng xem bóng người xa hoa?
2. Quanh co uốn cho
ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống.
2. SUY NIỆM 1 :
Trong mùa vọng, chúng ta
đã nghe và hát rất nhiều lời kêu mời trên đây của các tiên tri, thế nhưng như
Đức Thánh Cha trong tông thư “CÁNH CỬA ĐỨC TIN” nhận định : “Toàn thể Giáo Hội và các Mục tử trong Giáo
Hội, cũng như Đức Kitô, phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa mạc, đến nơi
có sự sống, đến việc làm bạn với Con Thiên Chúa, đến với Đấng ban cho chúng ta
sự sống, sự sống dồi dào” [1]. Tuy nhiên, các Kitô hữu lại thường quan tâm
nhiều hơn tới những kết quả của sự dấn thân về phương diện xã hội, văn hóa và
chính trị, cứ tưởng rằng đức Tin là tiền đề hiển nhiên của đời sống xã hội.
Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được coi là hiển nhiên
nữa mà thậm chí con thường bị phủ nhận [2]. Trong khi ngày xưa, có thể nhận ra
một hệ thống văn hóa thống nhất, được nhiều người chấp nhận, có tham chiếu nội
dung đức Tin và những giá trị chịu ảnh hưởng của đức Tin, thì ngày nay, trong
các lãnh vực lớn của xã hội có lẽ không còn như vậy nữa, do cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đức Tin đã ảnh hưởng tới nhiều người.” Vì thế ngay cả nhiều Kitô
hữu cũng đã không sẵn sàng ra đón Người CHO DÙ Người đã đến, đã hiện diện và
đồng hành với mọi người cho đến ngày cánh chung : “Này Thầy ở cùng các con cho đến tận thế”.
Vì thế để thi hành sứ vụ
của mình, sứ vụ mà trong ngày được đặt tên và cắt bì người cha đã nói theo thần
hứng “Hài nhi con ơi, con sẽ là Ngôn Sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa,
mở lối cho Người”, Thánh Gioan Tiền Hô đã phải lặp lại lời tiên tri Isaia trong
suốt hành trình cuộc rao giảng của Ngài, không chỉ bằng lời mà bằng cả cái chết
nhục nhã của mình : “Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có
tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi.”
Hát : Tiếng
gọi trong Sa Mạc (Xuân Thảo)
Trong sa mạc hoang vu, trên
rừng vắng âm u, có tiếng gọi trong sa mạc,
có tiếng gọi nơi hoang
địa, có tiếng gọi trong lòng .
Trong sa mạc hoang vu, trong
cuộc sống âu lo, có tiếng gọi trong sa mạc,
có tiếng gọi nơi hoang địa,
có tiếng gọi lòng ta.
ĐK: Dọn đường cho Chúa
đi,
hãy san bằng những con
đường gập ghềnh,
đồi cao hay hố sâu, hãy
biến thành những con đường thẳng tắp.
Dọn đường cho Chúa đi, trở
về với Chúa đi,
nước Chúa đang gần kề, nước
Chúa đang gần kề.
Đó cũng là lời mời gọi
của Đức Thánh Cha Bênêđíctô trong NĂM ĐỨC TIN này : “Trong viễn cảnh này, Năm
Đức Tin là một lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở
về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới.”
3. TIN MỪNG : Lc 1, 39-45
"Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm
tôi".
Ngày ấy, Maria chỗi dậy,
vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria
và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy
mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng
rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc
phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe
lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin
rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Đó là lời Chúa.
Hát : Này
Con Xin Đến (Thy Yên)
ĐK: Này con xin đến, này
con xin đến để thi hành Thánh ý Chúa. Lưỡi môi con xin Ngài tẩy xóa, bước con
đi xin Ngài dẫn lối. Tấm thân con giờ đây hiến dâng hiến dâng Chúa ơi.
1. Cho vui say đáp tình Ngài bước theo Ngài muôn lối. Tâm tư
con dâng trọn niềm dù khổ đau đen tối. Con xin dâng mối tình này để biết yêu
nhiều hơn. Con đi rao chính lời Ngài làm nhân chứng Phúc Âm.
2. Yêu thương con đã ngàn đời Chúa đã chọn gọi con. Nuôi thân
con trong tình Ngài nâng đỡ con đi tới. Luôn trông coi bước đường đời xin giữ
trong tình yêu. Xin cho con đáp tình Ngài đời con mãi tín trung
4. SUY NIỆM :
Trong suốt mùa vọng,
chúng ta được chiêm ngưỡng những khuôn mặt tiêu biểu đã đón nhận được Tin Mừng
Giáng Sinh : Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Giuse, Bà Elisabeth, Thánh Gioan Tiền
Hô, các mục đồng, Ba vị đạo sỹ phương đông, tiên tri Simêon, hay Anna… mỗi
người một phương diện, nhưng tất cả đều có chung một đặc điểm : các ngài đều là
những người nghèo theo nghĩa của Kinh Thánh : những người hoàn toàn tín thác
đời mình cho Thiên Chúa và luôn lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa
trong cuộc sống. Nói theo thánh Luca trong bài Tin Mừng, các Ngài luôn “được đầy Chúa Thánh Thần”. Chính Chúa
Giêsu sau này cũng đã khẳng định “Chẳng
ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”.
Thiên Chúa “lôi kéo”
chúng ta bằng những điều rất cụ thể mà Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã
nói trước và trong Công Đồng Vaticanô 2, đó là “Những Dấu Chỉ Thời Đại”. Ở thời hiện nay giáo huấn của Giáo Hội
cho thấy hơn bao giờ hết con người thực sự đói khát Thiên Chúa khi trong cuộc
sống dù tiến bộ vượt mực về khoa học giúp cho con người có đủ thứ tiện nghi, có
mức sống cao hơn thời xa xưa, nhưng cũng chưa từng bao giờ con người phải sống
trong lo âu sợ hãi như hôm nay, chỉ vì như lời Chúa dạy “không phải của cải vật chất đảm bảo cho cuộc sống”. Để biện phân
được qua những dấu chỉ thời đại đâu là Lời của Thiên Chúa đòi hỏi tinh thần
nghèo khó của Tin Mừng, nói cách khác chính là để Chúa Thánh Thần hướng dẫn tâm
tư và suy nghĩ, giả thiết phải có sự cầu nguyện thường trực trong cuộc sống.
Giữa một thế giới ồn ào
những tiếng động với muôn hình sắc, mỗi người, mỗi gia đình cần có một không
gian tĩnh lặng. Việc thiết lập bàn thờ ở phòng khách chỉ phù hợp cho việc cầu
nguyện công cộng và tuyên xưng đức tin. Có lẽ trong thiết kế mọi tư gia, chúng
ta không gặp thấy có cái không gian tĩnh lặng riêng tư này. Thực sự nó cần để
mỗi người và gia đình có được một sa mạc để gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng ngự nơi
kín ẩn. Bản thân Chúa Giêsu như Tin Mừng cho thấy Ngài thường lui vào nơi vắng
vẻ để gặp gỡ Cha Người. Trong câu chuyện Môsê và Elia chúng ta cũng biết Thiên
Chúa đi qua trong làn gió nhẹ hiu hiu thổi.
Không gian tĩnh lặng
không chỉ là nơi chốn, mà còn là cõi thâm sâu của linh hồn. Cần phải thanh tẩy
đền thờ tâm hồn khỏi mọi bận bịu thế tục, để chỉ còn là một khoảng không cần
thiết cho Đấng vô cùng lớn. Một linh hồn chỉ có một lời nguyện “Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
Hát : Chúa
là con đường
1.
Chúa là con đường cho con bước lên,
là
ánh hồng xua tan bóng đêm,
là
sức sống trong khi đau khổ,
sống
từng ngày có Chúa dư đầy.
Chúa
là mối tình con dâng trái tim
là
bóng hình con luôn vững tin
là
bóng mát cho con an nghỉ.
sống
một đời có Người con vui.
ÐK. Chúa dẫn con đường
đi về khắp nơi. Vui trọn đời, mãi mãi đem tình yêu nguyện hiến dâng cho tình
yêu.
2. Chúa từng xuống đời
mang thân đớn đau,
từng
với người chung tim xuyến xao,
thì
Chúa biết con đi muôn nẻo,
vẫn
tựa nhờ sức Chúa vô bờ.
Chúa
mở lối trời cho con đến nơi,
này
xác hồn con đây Chúa ơi,
xin
dẫn lối con đi xa vời,
biết
tìm Người trọn đời con thôi.
3. Sống trong cõi đời
đau thương Chúa ơi,
nào
ai người cho con nỗi vui,
chỉ
có Chúa như trăng sao hiền,
sáng
mọi miền xóa hết ưu phiền.
Bước
vào con đường bao nhiêu mến thương,
hãy
giúp lòng con thôi vấn vương,
tìm
mãi tới quê hương thiên đàng,
dẫu
bụi đường lấp mờ muôn phương.
5. LỜI NGUYỆN KẾT THÚC
Kinh Năm Đức Tin
(đã được
HĐGMVN chuẩn nhận)
Lạy Chúa là Cha chí
thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,/
chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con ơn
đức tin,/
nhờ đó chúng con được nhận biết và thực hành
những điều Chúa dạy, /
hầu đem lại cho chúng con hạnh phúc đời này và
đời sau.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa là đường, là sự thật
và là sự sống./
Ai tin Chúa sẽ tìm thấy đường đi, tìm ra chân lý
và tìm được sự sống./
Chúng con cảm tạ Chúa đã đến rao giảng Tin
Mừng,/
dạy chúng con những điều phải tin, những việc
phải làm, /
để được sống và sống dồi dào./
Xin nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng con,/
để chúng con luôn biết tín thác vào tình thương
của Chúa, /
sẵn sàng dấn thân loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thụ tạo, theo lệnh Chúa truyền.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng hướng dẫn mọi loài,/
xin khơi lại cho chúng con những điều chúng con
phải tin,/
những việc phải làm /
để đức tin của chúng con mỗi ngày thêm sâu sắc
và trưởng thành hơn./
Xin ban cho chúng con biết can đảm tuyên xưng
đức tin trước mặt mọi người,/
biết ý thức cử hành đức tin trong các nghi lễ
phụng vụ,/
thực hành đức tin trong cuộc sống hằng ngày, /
để có thể thông truyền đức tin đó lại cho con
cháu,/
và tất cả mọi người, đặc biệt là những người
chưa nhận biết Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin./
Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy
và Hội Thánh truyền,/
biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của
Chúa,/
biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị
em chung quanh chúng con,/
nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa,/
để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự
sống đời đời.
Lạy Thánh Cả Giuse, các Thánh Tử đạo Việt Nam cùng toàn
thể các Thánh,/
các ngài là những gương mẫu sống động về đức tin
cho chúng con./
Xin giúp chúng con biết sống /
và thực hành đức tin của chúng con trong cuộc
sống hằng ngày,/
nhất là trong Năm Đức Tin này.
Chúc tụng Thiên Chúa vinh hiển muôn đời. /
Amen!
Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng niềm tin vào
Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể :
Hát : Đêm Đông
Đêm đông lạnh lẽo Chúa
sinh ra đời,
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang Belem
ánh sáng tỏa lan tưng bừng,
nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang
lừng.
Đàn hát, réo rắt tiếng hát, xướng ca dư âm vang
xa,
đây Chúa thiên toà giáng sinh vì ta.
Người hỡi hãy tiến bước tới, đến xem nơi hang belem,
ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn.
Nửa đêm mừng Chúa ,giáng
sinh ra chốn gian trần.
Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than.
Nơi hang Belem
thiên thần xướng ca.
Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét