Lm.Giuse Đỗ Đức Trí – Gp.Xuân Lộc
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
Lời
Chúa: Is 61, 1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28
1. Làm chứng
Đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch,
dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức
Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy
giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế
nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là
Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn
loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện
diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của
đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và
Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích
thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.
Muôn
ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể
được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm
kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm.
Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng,
những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể
được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm,
có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta
chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.
Bởi
lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày
lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài
giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những
việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục,
những việc làm ngoạn mục xuất chúng.
Bài
đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan
báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân
xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng
ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện
những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc
mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức
Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô
đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh
sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và
hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất
quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không
phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức
Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế
nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính
mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà
mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
2. Gioan Tiền Hô
Sống
dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu
thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để
cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì
thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi
họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này
đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết
với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi
trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn
vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông
hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ
đi.
Qua
sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm
thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không
phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với
chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời
chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh
Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng
cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy
sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những
tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng
tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm
thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng
ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến
cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ,
chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác.
Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện,
bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những
người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn
đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong
tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.
3. Vui mừng và hy vọng.
(Trích trong
‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Hôm
nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy
vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang
sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí?
Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều
tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu
bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui
chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là
nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy
quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống
và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ
lể hội để đem niềm vui cho mọi người
Thưa
quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta
niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy
buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để
giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!
Thế
giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang
muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế
giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo
âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi
ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế
gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.
Lời
Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng
hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực
sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc
sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.
Niềm
vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta
một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng
Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài
còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán
trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự
tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai
tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát,
giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui
Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu
và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi
mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới
có thể đem đến cho chúng ta.
Kế
đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều
người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm
hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo
tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu,
không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em
hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn
cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi
sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa.
Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và
bình an sẽ gìn giữ anh em.
Bài
Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh
nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã
thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông
còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một
số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế
không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về
cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi
không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường
cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn
đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà
các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy
quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi
dây dép cho Ngài.
Gioan
không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo
vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông
ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh
sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người,
để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là
có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh
phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ
lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến
sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho
Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn
chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.
Thưa
quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm
nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn
ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các
nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là
mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt
ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không
chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia
đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh
sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia
đình mình.
Khi
chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời
gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao
vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui
khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không
dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng
mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.
Chúng
ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi
không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình
và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những
bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng
khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu
nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay
khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta
được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm
vui sâu xa.
Sau
cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện
của Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich
Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện
yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự
hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu
ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm
nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi
thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ
sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự
bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.
Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị
bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và
ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.
4. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Theo
truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho
người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có
đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Giêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá
cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
1.
Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con
người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và
tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy
nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị
vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người
nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời
đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên
được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh
hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ.
Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.”
Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
Hôm
nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức
dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm
hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và
loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người,
cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2.
Đấng Đến Sau Tôi
Cái
nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người
như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo.
Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn
không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người
thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người
khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Gioan
Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì
nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo
vật chất. Hơn nữa, Gioan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến
sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm
phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với
Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó
người ta và cả Gioan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức
Giêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang
chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả
khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có
(Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Giêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách
Isaia, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù
được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Giêsu
mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người
khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên,
vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Giêsu,
chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
3.
Hãy Vui Mọi Lúc
Như
một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica:
“hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh,
luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh
phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn
cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại
sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết,
đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần
gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình
an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui
và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ
khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì
con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch
cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Giêsu, qua
việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống
đó chính là cách sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi
bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi
không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Giêsu kêu trời “lạy Cha, lạy
Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng,
Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1.
“Hãy
bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không
2.
Làm
sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
3.
Bạn
có thể gặp được Đức Giêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
5. Làm chứng về ánh sáng
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Tin
mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau,
tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm
trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã
đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.
Trong
tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan, không phải là làm phép
rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một con người và được
Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói cho con người điều
ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng của ông là làm
chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà
cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu
(c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa
(1:5; 11:10; 12:35).
Chúa
Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là
sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh
sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16;
6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón
nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật
và sự sống (14:6) để được trở nên con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ
của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).
Gioan
là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là
Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang
đến. Thành ngữ egò ouk eimi “Tôi
không là” mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egò eimi “Tôi là”, được dùng độc nhất
cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), “Tôi là bánh ban sự
sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12; 9:5), “Tôi là…”
(10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho thấy Chúa
Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng nhân của ánh
sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ
của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42), dân chúng đến với
Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm thầm trong ngục
tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn (10:41).
Gioan
không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh
Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu
(8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một
điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân,
vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên
Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con cái của Người.
6. Làm chứng về ánh sáng.
Gioan:
Không phải là ánh sáng
Trong
đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên
Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian. “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh
sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9).
Khi
người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan
Tẩy giả: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn: "Tôi không phải
là Đấng Kitô." Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và
làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).
Gioan
Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh
cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng
nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.
Giấc
mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục
hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất
mới” cho cả vũ hoàn.
Vị
Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian. “Ánh sáng chiếu soi trong
bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5). Gioan Tẩy Giả
xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.
Gioan:
Làm chứng về ánh sáng
Ánh
sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”. “Người
ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết
Người”. ( Ga 1,10). Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết
Người - nhận biết Đức Kitô - nhận biết Ánh Sáng.
“Có
một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi
không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17). Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời
mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).
Ý
nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô
Đức
Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ
không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”
(Ga.8,12).
Gioan
Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh
sáng chân lý. Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng! Chỉ
trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính
mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé
nhỏ.
Trong
bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và
làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế
Thiên Chúa?
Một
cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế
Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp
dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế
giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.
“Sẽ
có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến
gần’” (Lc 21: 8). Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là
“làm chứng về ánh sáng”. Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống
trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một,
không có sự chọn lựa nào khác.
Quê
tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong
tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại,
nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng
em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó
đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…
Không
ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã
hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.
Hạnh
phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho
họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến
Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống
trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ
mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc.
Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau
khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng.
Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ
rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi
đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi
một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến
thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ
Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu
ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng
tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp
lên đến nay vẫn sáng.
Hãy
thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa
– Ánh sáng Giới luật yêu thương. Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng
tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và
hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?
Lạy Chúa,
Xin thắp lên trong con,
ánh sáng Tình Yêu Chúa,
để từ tận thẳm sâu lòng con,
biết nói lên và thực hiện,
Những điều Chân Thiện.
Đó là lúc con biết
làm chứng về ánh sáng,
Ý nghĩa của đời con. Amen.
7. Con tim rung nhịp với chân lý
(Suy niệm của
Thomas Nguyễn Văn Hiệp)
Tiếp
nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I
& II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.
Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ
ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm
của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang
nhiên giết người trên phố” đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng
xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người
đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật,
lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình.
Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới
tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua
đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường
bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò);
cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng
ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao
đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu,
nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo
cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười
mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp
hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.
Vụ án mạng được xác định xảy ra ở
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư
dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ
và thương xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới
bệnh viện do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng
và bàng quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo
cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn
10 phút sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của
người đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của
những người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!
Xem
đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu “Chuyện Tử Tế”
vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm
1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim
đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví
như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig” (Đức), được nhiều đài
truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim
tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.
Có
lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội
Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim
là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay
lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …”.
“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi
những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh
phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế
với nhau”. Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường
như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy
Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời
bình trong phim:
Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với
nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở
với nhau chẳng ra gì!”.
Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm
phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc
và đặt câu hỏi:
- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là
người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?
- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến
các bà soeurs.
Các thầy thuốc, trong đó có các thầy
thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các
trại hủi, đều trả lời như vậy …
Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu
là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?
- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và
đồng nghiệp là lòng Tin.
Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không
thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn
giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.
Người
biên tập bộ phim này cho biết: "Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế
có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức
nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một
cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là
những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm
người - người tử tế - trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có
quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm".
Đọc
đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập.
Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì
ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bài
Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là
người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự
thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân lý” là Đức Giêsu, cho dẫu
người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung nhịp với chân lý” nên mạnh
mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường
cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép
cho Người.”
Người
làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” là hai
người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách
sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để
trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách
nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản
thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu,
Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần
gian.
Người
làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất nhiều và cũng rất đáng
sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn
với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích
làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có “con tim
rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn
cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương,
chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là
các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.
Người
làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông
dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa
Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng
đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với
Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự
vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung nhịp với chân lý”
của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu
đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.
Bộ
phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ
dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng
cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung
nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.
Lời
dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của
Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim rung nhịp với
chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế” với nhau, khướt
từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Hình tượng
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn
nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.
8. Có một người ở giữa anh em – An Phong
Trong
mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và
Gioan - người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa
nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo
Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận
tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.
Cùng
với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa
Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.
Thiên
Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để
cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng
sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với
Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hãi của Isaác" (St 31,42),
là "Đấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)... Với Isaia, Ngài là
"Người Tôi Tớ đau khổ"...
Như
thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được
chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc
chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả
lời "tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người
ở giữa anh em mà anh em không nhận ra".
Như
thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một
vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang
ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"...
bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.
Như
Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị
Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng", nghĩa là dám nhận ra mình còn "những điều thiếu sót",
chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên
tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa
tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét".
Như
thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và
cố gắng sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt
tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi
khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang
đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám "đóng
vai Chúa"
để đến với những người nghèo khó,
khổ đau chung quanh con.
Và hình như con chưa nhận ra Chúa là
tình yêu,
Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính
tâm hồn của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình
yêu trong con
và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình
yêu của Chúa.
9. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh
Phụng
vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước
Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày
ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo
hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm,
công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì
Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây
là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.
Tin
vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở
thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và
Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh
Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn
của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và
niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn
xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu
Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi
và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người
được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài
Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên
trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện
bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa
làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.
Niềm
vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà
Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự
nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui
của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi
đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri
cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành
tráng hoàn vũ.
Niềm
vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách
nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long
trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu
đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ,
cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền
hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên
đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn
khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn
sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa
mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón
tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng
cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).
Con
người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người
vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời
sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện
hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối
với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự
phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc
sống.
Thật
vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân
để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không
biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền
hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô
hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà
chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo
Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám
phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không
biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp
họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.
10. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể
vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo
Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian
để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn,
"Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu," (ĐGH Gioan
Phaolô II: VietCatholic- 8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy
cơ chế bất công nhất thế giới.
Dọn Đường
Cho Chúa Đi
Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là
một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng
Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng
hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm
chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7).
Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ
mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn
dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người
thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: "Tôi là tiếng người hô
trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is
40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng
Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai" (Life Application Study
Bible:1991).
Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người.
Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ.
Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi
người: "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga
1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có
thể thấy được Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian." (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ
cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.
"Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như
thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không
hề "dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả
khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều
lần Người còn ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất
cứ "phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô
lệ bất xứng: "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên
Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có
Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa ?! Nhưng
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14).
Nghĩa là "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận"
(c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm
vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công
chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.
Nhận Diện
TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng
từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất
hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa
đã công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21):
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người
bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả
những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được
Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc "Phúc Âm
hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức Giáo
Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo
hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống
"công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo
hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác
tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát
"Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo
ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ" (Giáo hội
tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do
thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý
tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ
không muốn khống chế con người.
Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những
"chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với
khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc
tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối
khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.
Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng.
Thực tế "Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ
và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo
hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường
bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục
địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp
ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.
Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước
những gì ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy
công lý ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc
nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng
được triển nở ở mọi cấp bực xã hội" (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic-
8/12/1999). Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý
tưởng Kitô hữu sau đây:
TÌNH
YÊU phục vụ tha nhân,
Sống
là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.
TÍN
THÀNH sống đạo làm người,
Hồng
ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.
Hai
vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô':
TIN
MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.
Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy
nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô
cảnh cáo: "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi
giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời sống phụng vụ"
(ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân
lý cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo
dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin,
"bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và
duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế." (CWNews
25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng
văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải
tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh
Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo
dân "ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin
Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức
Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh
mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin
Mừng.
11. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao Luật
Tôi chẳng phải là ai cả
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở
phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông
Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép
rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của
ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm
thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với
ông để lãnh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của
ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im
vắng được ba thế kỷ ?
Người Do-thái, hay chính xác hơn, một
số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và
muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ
muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.
Trước hết, họ muốn biết có phải là
Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người
mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ
giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình
ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi
đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang
có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con
người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến
với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.
Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ?
Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là
Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là
một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V
2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời,
ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là
ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh
quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và
ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.
Đơn giản là một chứng nhân
Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một
thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên. Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a,
không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không
phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một
chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn
đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của
Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng
nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho
thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ,
nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể
đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông
chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng
luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của
mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm
chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả.
Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.
Đàng khác, câu trả lời của Gioan là
một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những
người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông,
nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một
vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".
Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan
Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước
để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết
rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng
Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi
quai dép cho Người" ; "có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có
trước tôi" ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người
đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn
đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là
ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết rằng chính ông không phải
là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống
đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức
Ki-tô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh
sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để
chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa
vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết
Không ai thấy Thiên Chúa, không ai
nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa. Làm thế nào
bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy
được? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn
mặt không thực, Người là ai? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng
mặt, Người là ai?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý
luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay
để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta
cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng
rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được
thoả mãn.
Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu
thấu: chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp
nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và
nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp
nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.
Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho
cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để
cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta
bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang
có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?
Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra
cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên
Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi
chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta
cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng
vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng
không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta
được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn
những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính
chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả
chỉ có thế.
]]]
-
Thiên Chúa
của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường.
-
Thiên Chúa
của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người
là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người
là những gì đã có, hiện có và sẽ có,
Người
là tất cả, nhưng không có gì là Người,
Chúa
tôi gây sững sờ
là
Đấng người ta tin nhưng không thấy,
người
ta yêu mến nhưng không sờ được,
người
ta trông chờ nhưng không nghe theo,
người
ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.
(Juan
Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)
12. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CHỨNG NHÂN
CỦA ÁNH SÁNG
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh
sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra
ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi
mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến
thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy
được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita
là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính
cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn
ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời
thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước
từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải
là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải
là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa
mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng
Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo
ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức
thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng
tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của
thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn
đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh.
Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ,
thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của
ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và
mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt
thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người
lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là
người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời
hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi
sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân
là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về
chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài
có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung
thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương,
không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã
thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực
này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã
làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng
đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân
là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin,
thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết
mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi
người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho
Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không
giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói:
"Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga
1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ
Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì
thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi
phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một
chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên.
Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài
đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường
cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón
Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho
Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở
đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng
cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa,
tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình
vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự
đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng
con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
13. Chứng nhân ánh sáng trung thực
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công
Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa
dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ
nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci,
Titian, Caravaggio đến Rubens...đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi
tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến
hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ
cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời
nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ
thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức
tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển
tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu,
và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy
giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng
chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề
"Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ
vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy
Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng
cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa
Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn
về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như
đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên
trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học
giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là
nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên
Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và
làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là
chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc
đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn
hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm
nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt
11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém
đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực
nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối
mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể
của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển
cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát
giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng
phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không?
Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình
trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông
nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong
Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám
nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực
rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan
sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong
sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái
Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái
Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo
nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan
cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua
Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20).
Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và
bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng
trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung
thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống
dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để
sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn
đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên
Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao
cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được
đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả,
nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không
đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà
quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng:
“Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào
hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang
thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi
loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước
thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa,
sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo
những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì
thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa
vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao
đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất
bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại,
cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào
cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá
hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo
lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng
kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương
truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị
chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya
Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính
viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người
Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn
năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến
thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân
trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình
hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ
quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im
lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng
cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều
sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam
lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã
hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu
cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ
vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống
trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng
ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà
cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản
tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân
tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả
dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc
Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành
giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi
rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm
lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào
được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh
chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi
ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu,
28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội
ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường
như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được
tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như
thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài
Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ
giả
Chữ nghĩa du
di chả mấy hồi
Đói không
nói đói, "thiếu ăn" thôi!
Học hành
"hạn chế": y chang dốt
Báo cáo
"tuy nhiên": ắt hẳn... tồi.
"Vượt
mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa,
"Có
phần sơ sót"? Hãy nhân đôi...
Mực đen gấy
trắng đòi trung thực
Chữ giả xài
lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu
lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển
nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề
cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó
chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách
làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và
nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết
làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học
(hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng
trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo
đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn
Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa
Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho
chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là
chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối
đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực
phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học
sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh
sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý
và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp
phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
14. Người làm chứng
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ
‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông
được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia
sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về
mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi
người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép
rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một
phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai?
Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô"
- "Không phải" - "Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và
trung thực. Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải
là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ
người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng
hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô. Ông biết
rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn
ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người."
Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng. Gioan tự xóa mình trước Đức
Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa
của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần. Gioan
không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta
đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên.
Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi
phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin
hơn. "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ
với nhiều người. Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong
khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm. Xin được làm người chứng như Gioan,
giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc,
điện ảnh, thể thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới
trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
·
Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm
mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt
như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi
chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng
còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và
dâng Người tình yêu trong mọi lúc. Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không
bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
15. Kitô hữu, bạn là ai?
(Trích
trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Trên đường
đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ
chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh
của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng
cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những
suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những
điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính
thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và
thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai
xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến
với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ
cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan
Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên
tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự
dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông
không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì
cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài
đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang
đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an
và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường
cho Chúa đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi
cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy
Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?” Chúng ta không đơn giản trả lời
bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội
của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc
sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta.
Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã
sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về
thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ
què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc
7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm
của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói
về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh
niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như
người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như
người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết.
Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì,
đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng
Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính
tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công
việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ
bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ
bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại
chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger
Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm
gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên
những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng
phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này,
giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự
chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay
chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng
cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem
niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ
nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một
Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta,
những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội,
nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta
là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn,
một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô,
hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp
Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.
16. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Vào thời
Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp
một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền. Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy
tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí. Vị giáo sư
ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền
thưa: "Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa".
Thiền sư
Nan-in thản nhiên đáp: "Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp
những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông
được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước." (Trích: Góp nhặt cát đá của
thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể
rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất
cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn
chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào. Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng
ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con
người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không;
nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.
ÙÙÙ
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và
cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài. Tiêu biểu cho hạng
người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. "Họ làm mọi việc cốt để cho
thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ
ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được
người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là
"ráp-bi". (Mt 23, 5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm
gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang
trọng, bằng dinh thự nguy nga. Trong khi đó, Gioan chê bỏ những "lớp
vỏ" hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang
mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn
khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ
hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm
lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy
vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng
ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất
cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là
ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến
trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là
ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai. Có một số khác nghĩ rằng nếu ông
không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn
sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy. Và
đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông
đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của
ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất
cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: "Tôi đây làm
phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (Ga 1,
26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang
dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình
đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên,
còn tôi phải lu mờ đi." (Ga 3,30). Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự
người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1,
23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được
Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành
trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan
trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông.
"Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có
ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
ÙÙÙ
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã
sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình
xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời
khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa
Giêsu,
Chiếc ly đời
con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến
luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương
giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét
đó đi cho tâm hồn được rỗng không. Có làm được như thế, chúng con mới trở thành
ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca. Chỉ khi đó, chúng con mới trở
nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân
sủng.
17. Nghề của tôi
Cách đây ít
năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được
dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh
công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings,
người hốt rác của họ: Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một
Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã
giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm
lẫn mà vứt đi.
Và ông giám
đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau: Chúng tôi tin rằng
người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh
nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã
cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người
ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
-
Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch
của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông
sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:
-
Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn
đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan
báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là
Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề
nghiệp của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo
Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong
chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều
có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của
chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn.
Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của
bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức
rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên
nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới,
toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh
lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than
phiền: Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt vãnh như thổi
cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi
trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc
sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào.
Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con
người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà
còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng
ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc.
Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công
việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để
cứu chuộc mọi người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn
bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh
quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
18. Gioan
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào
đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của
mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi
của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ
có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây
quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính,
mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng
cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông
đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống
trên đầu và từ trời cao có tiếng phán:
-
Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo
dân phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho
đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh
dạn nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
-
Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là
bổn phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử
chúng ta cũng thấy được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các
ông đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ
gặp phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị
bắt bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin
Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền
thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê
và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công
đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong
số 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ
đầu, các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã
anh dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho
Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình.
Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi
cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua
Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên
là Ích Ngư, vua nói:
- Ta đây là
vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá
hèn hạ nói:
-
Nếu được
phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng
lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:
-
Chim hồng
sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy
vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi
săn và lạc vào rừng sâu thế này.
Nhà vua
khen:
-
Chú nói hay
quá.
Sau đó, nhà
vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn
trả lời:
-
Đức vua ghi
địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu
dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà
vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo
sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói
năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta
chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết
Chúa.
19. Những lời chứng
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò
trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của
ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một
chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống
theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong
cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của
cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ
sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống
động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài
bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng.
May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân
mình như không có giá trị gì.
Một vị linh
mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm.
Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học
chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn
ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng
ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời
gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số
nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách
gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ
tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra,
người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và
bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi
đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa
ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.
Vào cuối
thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép
trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên
trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì
tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng
được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và
lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời
chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến
lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên
một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng
từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô
vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện
diện đối với người khác một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh
sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một
đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một
lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống
nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo
đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời
chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng
thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những
người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô
hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế
giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và
không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm
tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ
dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu
nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho
Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.
20. Ẩn mặt
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến
chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn
mặt”. Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử.
Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người
viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn
thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người,
nhưng không ai nhìn thấy Người.
Có câu
chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé
bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé
nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến
phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi
chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm
thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra
khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô
độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến
nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm
kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế
gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả
khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng
nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các
ông không biết – một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng
của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và
thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ
chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của
Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và
được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta,
mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi
như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm
gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn
nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng
phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên
Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm
đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một
người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một
Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan
tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án,
nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với
những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở
bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được
tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến
niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong
ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
21. Sứ giả tin mừng
Thuở nước Mỹ
chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành
những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn
những con ngựa khỏe. Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước
đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại
tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.
Bình thường
họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất
kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong
vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng. Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại
nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc
hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho
chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta
thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển
giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan
Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó,
hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã
đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ
loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là
có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các
ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu
người đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành
thị đến những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống
để loan truyền cái tin quan trọng, đó là: Đức
Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được
loan báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất. Các nhà
truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với
họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó.
Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao
giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
-
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật
chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để
họat động.
-
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường
ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin
mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng
ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết
được rằng:Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta
cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những
người chung quanh.
22. Chứng nhân
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan
trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi
mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện
đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô
của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng
nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã
cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho
Đấng Cứu Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã
đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây
là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành
nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng
lời nói, bằng hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói: chúng ta
biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan
báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì?
Ngài bảo cho mọi người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị
đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi,
cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa
Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa,
Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn
nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết
Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh
Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy
theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan
loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu
Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn
làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao
giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời
giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì ngài chỉ
nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công
của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã
lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó
nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô
ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho
Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài
biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn
tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu
ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu
ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành
bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người
ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài
được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì
ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”,
lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng
của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách
là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói
và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố cáo
cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài
đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối
cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính
vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà
say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước
những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là
Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị
chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của Gioan
Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải
bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh:
thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc
khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống
như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng,
là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông
huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của
sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài
chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ:
chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng
ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm,
giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô
vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như
thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không,
đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất
lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà
không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết,
đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói
thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại
cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.
23. Vui mừng
Chuyện kể về
một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một
nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu
đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực
sự? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là
nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả
được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng
bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó
đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một
gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc
thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều
nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có
hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh
phúc đó.
Bạn nghĩ
sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua
không? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã
ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài
lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người hạnh phúc nhất trên đời
không có ngay cả một chiếc áo!
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật
thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh
có nghĩa là “vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng
– Advent Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì
Thiên Chúa đã gần đến rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa
tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế,
Pascal đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả
những người treo cổ tự tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người
sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi,
lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi
tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm
của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi
tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony
de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng
giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn
đang tìm gì vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế
rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra
một điều gì nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở
trong nhà thì phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở
đây?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất
mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền,
tài.
-
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính
màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà
họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi
chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm”.
-
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc
bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi
cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ
châm biếm:
Bạc
ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi
làm nhân loại hoá ra điên.
Mi
tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi
xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi
gác luân thường vào một xó,
Mi
đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi
làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc
ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công
danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng
phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra
trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là
đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi
thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc
bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào
mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.
24. Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay,
nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm
hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng
kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả
những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc
của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy
hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng
vai trò này: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ
của Chúa”. Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Sự
ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã
được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo
con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý
và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Khía
cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy
hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa
gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại
Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không
ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu
con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.
Linh mục
Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu
chuyện “Con Mèo Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:
Một con mèo
già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái
đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao
con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng
cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong
cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt
được, con sẽ có hạnh phúc!”
Mèo già trả
lời: “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi
đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng
nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong
khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì
cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu!”
1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con mèo già
nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn tả điều
kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không phải là
mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một thực tại khác. Hạnh
phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải nhắm tới
là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình
khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự an vui của
đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của họ. Lấy
tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc sống của
mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các thiếu thốn
của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của người khác như
quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát ra khỏi sự tìm
kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem
lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên
một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý
thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự
bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là
cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc
tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh
Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ
chẳng bao giờ thấy hạnh phúc. Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm
trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm
của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn”. (Định
nghĩa Cuộc Đời của Trần văn Điền).
25. Dấu chỉ Đấng Messia - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhân
loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn
thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục
vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích
lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn
cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.
Dầu
vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én
đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những
người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh
tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến
phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân
chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá
cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con
người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các
trại phong...
Tất
cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp
hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có
một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho
mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong
xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay,
người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó,
người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ
mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn
sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một
cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì
"cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu".
Đức
Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ
mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân
phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận
bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận
Đấng Messia chính là: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành
lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng".
Cuộc
đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc
nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ
không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu
diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến
trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm
tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong
một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong
một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng
ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong
tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện
thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.
Bên
cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của
Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người
ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì "người ta cứ dấu này
mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu
nhau". Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban.
Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một
hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn
tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần
đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi
chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ.
Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ
với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để
chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định,
ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn
đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.
26. Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là
Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là
khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa
nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được
sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan:
“Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng
kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà
ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn
vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng
Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện
tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan
trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt
11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có
trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung
thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái
mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh
sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp
biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta,
Gioan Tẩy Giả như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ
tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ
nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong
tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng
nhân đầu tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng
này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết
án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân
mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14
lần, và động từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu
tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh
sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người
không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người
Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự
vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng
cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề
cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng
ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong
cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không?
Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh
chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về "bí quyết”
chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không
phải là vị Ngôn sứ... tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch
của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm
biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó
là: "ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại
được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai:
ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm,
ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo
Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo
Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô
hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi
không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin
giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như
những “kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông
không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi
duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các
ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của
các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận
biết" và gọi tên " Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm
kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948,
khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận
ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù
Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền
sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền
được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được
sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết
bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ,
đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời
đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được
tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận
phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường
nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao
ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong
nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức
Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều
đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi
người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn...",
như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được
người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét
bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị".
Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới
đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh,
buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa,
Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể
" của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là ai'), tất cả
mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không
thể biết được”, là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra
Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong
thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!).
Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay
nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra
sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang
dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không
ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những
người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm
vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn
xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân
đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối
tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người “lớn
lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ
đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng
cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị
xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ " của mình, bằng
cách tự đình chỉ công việc của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy
sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối
cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn
toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay
là chúng tôi còn phải đợi ai khác " (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả
không những là một chứng nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín
hữu" tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho
chúng con. Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ
và sống khiêm tốn như Ngài. Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con
"tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng
con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh
tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga
1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động
“tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của
Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi
Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim",
biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán... (Ga
1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến
những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn
số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng
đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm
phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức
của ông, thì "chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin
giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia
sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến... từ thành
thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa
lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin
vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần
(Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa
sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở
rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên
kia.
từ khóa tìm kiếm:
NIỀM VUI PHỤC VỤ CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B ĐA MINH BA NGÔI,
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU , 2014 CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B, CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B THIÊN LAN ,
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B NIỀM VUI ,
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B PHỤC VỤ , KINH THÁNH CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B LỜI CHÚA , SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B Share , SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B SINH HOẠT , CHUYỆN CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B CÂU ĐỐ , CẦU NGUYỆN CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B GIÁO LÝ , TIN TUC CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B THE GIOI , View Online CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B, HOI THANH CONG GIAO CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B, TAN UOC CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG BCUU UOC , Yeu CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B Viêc HOC HOI THANH KINH ,
Bạn hãy Like hoặc Comment để ủng hộ Niềm vui phục vụ nhé bạn nhé .Chúc bạn có những giây phút thật vui vẻ (^_*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét