LỜI GIẢNG DẠY UY QUYỀN
Trong những năm qua, nhiều người đã tin vào những lời tiên báo của một phụ
nữ được coi là tiên tri của thế giới tên là Vanga, người Bulgary. Người ta cho
rằng, nhiều lần bà đã tiên báo rất chính xác về những biến cố xảy ra trên thế
giới, chẳng hạn những cuộc chiến tranh lớn hoặc những tai họa xảy ra cho thế giới.
Tuy nhiên cũng rất nhiều lần, lời tiên đoán của bà đã không xảy ra. Vậy mà, có
rất nhiều người vẫn tin theo.
Người ta cũng thấy rằng, ngày nay, những lời tuyên bố của một số các vị
lãnh tụ các quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới. Nếu như có những lời
tuyên bố làm thay đổi tình hình của một đất nước, đem đến giải pháp hòa bình (Mỹ
và Cuba) thì ngược lại cũng có những lời tuyên bố đem đến chiến tranh và giết
chóc. Nếu đã có những lời tuyên bố đem lại cuộc sống kinh tế dễ chịu, thì cũng đã
có lời tuyên bố đem lại sự suy xụp về kinh tế cho một quốc gia khác.
Tuy nhiên, dù là lời tiên báo của bà Vanga hay là lời tuyên bố của lãnh tụ
các quốc gia gây ảnh hưởng đến thế giới, thì không ai cho rằng những tuyên bố
đó có uy quyền. Thế nhưng hôm nay, những người Do Thái khi nghe những lời giảng
dạy và thấy những việc Chúa Giêsu làm thì họ đã nói với nhau : Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền.
Khác với các lãnh tụ của thế gian, khác với các luật sĩ và các nhà giảng
thuyết khác, Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền của một vị Thiên Chúa. Chúa
Giêsu là Thiên Chúa làm người, mang thân phận con người như chúng ta, song đồng
thời nơi Ngài, mọi hành động, mọi lời nói vẫn là lời nói và hành động của một vị
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và điều khiển vũ trụ, Đấng có quyền phán xét và thưởng
phạt mọi người. Tuy nhiên, uy quyền nơi lời giảng của Chúa Giêsu không phải là lời
uy quyền của một vị quan tòa khiến người ta khiếp sợ, cũng không phải là lời của
kẻ giàu sang quyền lực, nhưng lời của Chúa là lời mang sức mạnh của tình yêu.
Chúa Giêsu đến thế gian để công bố thời đại của Thiên Chúa, mở ra một mùa
hồng ân cứu độ. Sứ mạng của Chúa Giêsu là chữa lành, là cứu vớt chứ không phải để
trừng phạt. Ngài loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn
đau thương giập nát. Như thế, những người Do Thái đã nhận ra uy quyền của Chúa
Giêsu vì lời nói và hành động của Ngài phát xuất thực sự từ trái tim yêu
thương, từ tấm lòng trắc ẩn của Ngài đối với mọi người, chứ không phải là những
lời nói, việc làm hời hợt bên ngoài, vì hành động phát xuất từ trái tim yêu
thương sẽ dễ dàng đụng chạm đến những trái tim bị tổn thương.
Khi thấy những người bệnh tật, nghèo khổ thì các luật sĩ và biệt phải tỏ
ra dửng dưng, coi như chuyện bình thường. Họ để cho trái tim khô cứng đến độ trở
thành vô cảm trước nỗi đau của anh em. Họ còn nại vào luật ngày Sabát để từ chối
việc giúp đỡ người nghèo khổ, và còn ngăn cản Chúa Giêsu khi thấy Ngài chữa bệnh
cho những người này. Chúa Giêsu thì không như thế, Ngài nhìn thấy nỗi đau từ
trong ánh mắt, từ trong tâm hồn của những người nghèo khổ bệnh tật. Họ đang cần
tình yêu thương, cần sự cảm thông, an ủi và Chúa đã làm việc đó bất kể đó là
ngày nào.
Hơn thế nữa, theo quan niệm của người Do Thái, tất cả bệnh tật, đau khổ
là do tội lỗi và ma quỷ gây nên. Chúa Giêsu không chỉ an ủi những người đau khổ,
chữa lành những bệnh tật thể xác, nhưng Ngài còn dùng quyền năng của Thiên Chúa
để xua trừ và tiêu diệt nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người, đó là ma quỷ
và tội lỗi. Vì thế hôm nay, khi bước vào hội đường Caphácnaum, một người bị quỷ
ô uế ám đã la lên rằng : Ông Giêsu
Nazareth, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi ?
Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa !
Chúa Giêsu không chấp nhận lời tuyên xưng của ma quỷ, không làm ngơ bắt
tay hợp tác với nó, nhưng Ngài đã dứt khoát buộc nó : Câm miệng
và ra khỏi người này ! Thần ô uế buộc phải xuất ra khỏi anh ta. Việc làm
này của Chúa Giêsu tỏ cho thấy một khía cạnh khác về uy quyền của Ngài. Đối với
con người, Ngài dùng uy quyền của trái tim ; còn đối với ma quỷ, Ngài dùng uy
quyền của một vị Thiên Chúa quyền năng, Đấng làm chủ mọi vật mọi loài. Ma quỷ
có thể gây hại cho con người, thế nhưng khi đối diện với Thiên Chúa, nó chỉ như
một con thú hèn nhát bỏ chạy bởi một lời ra lệnh của Ngài.
Những gì Chúa Giêsu đã giảng và đã làm khiến cho những người Do Thái nhận
thấy Ngài khác hẳn với các luật sĩ và thượng tế của họ, vì những người này
không có được uy quyền trong lời nói và việc làm của một vị Thiên Chúa và cũng
không có uy quyền, sức mạnh từ trái tim. Họ cũng nhận thấy nơi Đức Giêsu lời
tiên báo của Môsê đã được ứng nghiệm. Đối với dân Israel, Môsê thực sự là một
“người của Thiên Chúa”. Ông đã từng được gặp Thiên Chúa mặt đối mặt và ông đã
nhân danh Thiên Chúa để thực hiện một cuộc giải thoát vĩ đại cho dân Chúa ra khỏi
Ai- cập. Trước khi qua đời, Môsê cũng đã trối lại cho Israel rằng : Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ở trong anh em một
ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy và người ấy
sẽ nói với dân tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.
Sứ mạnh và uy quyền của Thiên Chúa có thể đụng chạm đến trái tim, có thể
chữa lành mọi vết thương của thể xác và tâm hồn, chỉ có điều là chúng ta có dám
để cho tình yêu và quyền năng của Ngài chạm đến chúng ta hay không mà thôi.
Thiên Chúa chỉ có thể chạm đến tâm hồn chúng ta khi chúng ta đồng ý mở rộng
cánh cửa trái tim để cho Ngài bước vào, khiêm tốn cúi xuống để cho quyền năng
Thiên Chúa thể hiện trên cuộc đời và tâm hồn mình. Hãy để cho trái tim của Chúa
gặp gỡ trái tim của chúng ta, hãy để cho bàn tay của Ngài đụng chạm đến vết
thương trong tâm hồn và để cho lời Ngài xoa dịu, chữa lành, an ủi chúng ta.
Chúa vẫn đang thể hiện uy quyền qua lời của Ngài, lời ấy có sức chữa lành,
an ủi và soi dẫn cuộc đời chúng ta. Nơi Bí tích giải tội, chúng ta sẽ được đụng
chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa và qua Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ
đón nhận được quyền năng biến đổi của Ngài.
Được làm con của Thiên Chúa và đồng thời cũng là cộng tác viên của Chúa,
mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp tục thực thi uy quyền của Thiên Chúa với
những người chung quanh. Hãy dùng uy quyền của những lời nói chân thật, ngay thẳng
để nói với nhau. Hãy dùng những lời yêu thương, thông cảm để chia sẻ với nhau
thay vì những lời cộc cằn khó nghe. Hãy dùng sức mạnh và uy quyền của tình yêu
từ trái tim chân thành để có thể cùng cảm thông và an ủi anh em đồng loại.
Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Fancis đến Scrilan và Philippines vừa
qua đã để lại ấn tượng rất sâu đậm cho hai quốc gia này, là nơi những người
nghèo và những bất công xã hội đang lan tràn. Giải thích cho sự kiện hàng 6-7
triệu người thức đêm để chờ đợi chỉ một giây được nhìn thấy Đức Giáo Hoàng, hoặc
là phải đứng dưới trời mưa nhiều giờ để được nghe tiếng nói của Ngài, những người
được hỏi cho rằng : Vì Giáo Hoàng Fancis
là vị Giáo Hoàng của người nghèo. Ngài đến với chúng tôi với cả trái tim và
lòng thương cảm. Ngài đến để an ủi và để lắng nghe chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy
Ngài ôm chúng tôi vào lòng.
Trong cuộc nói chuyện với các thanh thiếu niên, Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ
các bạn trẻ : Đau khổ là dịp để Thiên Chúa mời gọi
mỗi người biết sống cảm thông và học cho biết sống quan tâm đến người khác. Đau
khổ, bệnh tật của nhân loại còn là để mỗi người có cơ hội phục vụ lẫn nhau. Phục
vụ không chỉ bằng một vài lần thăm viếng, tặng quà, nhưng bằng việc đón nhận
nhau trong yêu thương và xoa dịu nỗi đau của anh chị em bằng cảm thông, đó là
điều họ cần hơn những thứ khác. Ngài nói : "Chỉ khi nào một con tim không
thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó, chúng ta mới có thể hiểu được
đau khổ”.
Đức
Thánh Cha cũng kêu gọi người trẻ cần phải học cách để khóc : “Cha mời gọi từng
người trong chúng con ở đây, hãy tự hỏi mình rằng, tôi đã học được cách khóc
chưa, khóc như thế nào ? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề
đường chưa ? Tôi đã khóc cho một ai đó đang nghiện ngập chưa ? Tôi đã khóc cho
một ai đó bị bạo hành chưa ? Đây là điều trên hết mà Cha muốn nói với chúng con
: Hãy học để khóc... hãy học, học thực sự để mà khóc, vì ngay cả Chúa Giêsu
cũng đã khóc”.
Xin Chúa cho chúng ta có một đôi mắt thật
sáng để có thể nhìn thấy những đau khổ của anh chị em, một trái tim nhạy bén và
bao dung, một đôi tai thật tốt để lắng nghe và thông cảm, một đôi tay thật dài,
thật rộng để có thể xoa dịu nỗi đau của anh em và một tâm hồn nhạy cảm để dễ
dàng khóc với anh em. Amen.
Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí – Gp. Xuân Lộc
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Dnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc 1,21-28
1. Chúa Giêsu và dân chúng
Qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân
chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở
ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng
dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi
hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người
cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con,
những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận,
tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày
kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám
đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp
hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông,
bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm
cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy
lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà
đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác
nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa
Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn
biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo
đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các
ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những
người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài
đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy
vọng.
Một
đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ
thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như
một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người
mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải
trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về
bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng
cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác
chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương
của Thiên Chúa.
Mặc
dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc
thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng
để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại
tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng
của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng
ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi
vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta.
Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy
lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi
dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền
cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa
là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
2. Ma quỷ
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình
chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một
trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949.
Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé
đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào
bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời
nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu
thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già
trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng
kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.
Từ
câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu
xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là
nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao
đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan
vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa
không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố
chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng
lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó
là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị
đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc
để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu
hỏi thứ hai được
đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao
vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã
không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những
lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành
giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm
chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những
công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng
ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những
tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên
Chúa yêu thương vậy.
Hãy
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày
một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực
Satan.
3. "Con Người Đến Để Phục Vụ"
(Suy niệm của
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở
đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng
cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho,
chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với
nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh
vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến
bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế
giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã
từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực
làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền
lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm
cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu
sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật
chất.
Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng
thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài
kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài
sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn
mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị
giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có
những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài
khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực
không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú
quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen
thấp cổ bé miệng.
Chúa
Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng.
Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ
và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời
sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc
đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận
sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài
còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một
cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư - chết vô địa táng".
Vâng,
Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không
phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người
nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất
hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình
thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn
tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài
nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng
hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài.
Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy
quyền".
Người
Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội.
Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn
gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu
để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện
diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại
niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu
nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị
tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục
vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết
lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để
phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì
tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành
tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những
ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người.
Amen.
4. Giảng dạy như có thẩm quyền
(Suy niệm của
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tác
giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy
và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra
mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời
rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô
trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ
điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em
hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc
chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng
mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um.
Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng
dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các
kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp
nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng
được rao giảng.
Rõ
ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức
Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến
chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy
tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với
con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả
cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm.
Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu
thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn
khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người
giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật
ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu
biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các
thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên
con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có
khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ
tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục
họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại
chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra
phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng
giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức
Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa,
trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát
tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi
thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự
chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như
một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.
Suy
niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết
thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Ki-tô.
-
Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự
nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết
thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới
hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng
thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin
Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong
đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’
này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!
-
Quan trọng đối với việc mục vụ:
suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các
bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn
được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá
nhiều bởi các kiến thức thần học - luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện
giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng
thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha
thứ của Đức Ki-tô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường
cách mãn nguyện?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận
biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và
hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích
thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều
người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương
hết thảy mọi người. Amen.
5. Chân tướng của Đức Giêsu
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Người
đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy
vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ
một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ
người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa
trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác
phàm.
1)
Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn
sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho
dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người
biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa
sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm
những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi
một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của
lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức
Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy
quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được
quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này.
Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một
ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực
hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của
Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ.
Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.
2)
Hơn một vị ngôn sứ
Đức
Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa
là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao
ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị
cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài
không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta
biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái
chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng
tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái
nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng
họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là
một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả
các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần,
vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là
hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức
Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những
người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức
Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của
con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến
Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và
cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người
ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng
dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3)
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể
hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con
Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu
thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một
nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được
xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức
Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với
Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con
Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa
(Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng
bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta
Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức
Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát,
Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất
lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;”
nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một
tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô,
Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng
Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi
Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác
biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai
Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của
Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để
diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1.
Bạn
hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
2.
Đức
Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
6. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA QUYỀN
NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH
Nếu
như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán
cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên
sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời
Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến
cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung
là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải
vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu
mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường,
nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các
Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1,
21-22).
Hơn
cả luật sĩ
Lúc
ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở
đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi
người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy
thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).
Điều
gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý,
cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy
làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên
các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu
không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với
chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa.
Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".
Hơn
một Tiên tri
Bài
đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là
vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa
với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ
Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo
tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và
đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng
giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi" (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào
miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu
kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy
sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính
số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính
Chúa.
Dân
sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào
đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của
ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua
đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ
công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người
ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên
Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc
chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng
thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư
vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người
này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc
Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng
ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều
thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó
bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị
Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức
tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến
đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta...
Sự
im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy
thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì
Người là "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Đấng
Thánh của Thiên Chúa
Việc
trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa
Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa
chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi
và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co
giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa
Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và
tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì?" (Mc 1, 27).
Giờ
đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí
mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai
mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô
uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập
nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của
Thiên Chúa! (Mc 1,24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó:
"Im đi!" (Mc 1,25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp
nhận, nên kinh ngạc.
Chúng
ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các
cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự
đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời
sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ
sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và
ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
7. Tại Hội đường Caphácnaum
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài
Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ
đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ
đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa
Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa
lành người bị quỷ ám.
“Đức
Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội
đường giảng dạy”
(c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động
chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi
quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy…”
(14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng,
cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng
Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối
với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người
giảng dạy.
Một
nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy
của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những
người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị
đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá
lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất
hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những
lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động
quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của
dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là
gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các
thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi,
khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).
Sở
dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm
quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết
Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho
dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc
1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt
động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với
chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu
thì hoàn toànb khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người
có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này
sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa
Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng
Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).
Cùng
với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ
quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên
rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức
Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người
ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).
Trừ
quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại
nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi
là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt
động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực
tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn
với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không
phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn
toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những
điều xấu xa… Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí
của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do
hành động của con người.
Chúa
Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế.
Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng
nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ
sự tự do.
Trước
khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu
Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi
biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng
và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với
Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma
quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người” (10,45).
Tóm
lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong
hoạt động của Chúa Giêsu:
(1)
Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và
chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và
Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.
(2)
Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.
(3)
Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương
thời.
(4)
Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con
người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.
(5)
Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng
Thánh của Thiên Chúa.
(6)
Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.
Chúa
Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ
của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như
Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho
Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.
8. Đấng Thánh của Thiên Chúa
(Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Trong
Tin Mừng theo thánh Máccô, ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng
Mátthêu hay Gioan. Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung
cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát. Theo
Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây. Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày
sabát như thế nào.
Trước
hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy. Thánh Máccô không kể lại nội dung của
bài giảng, chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài vì cách giảng đầy uy
quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép
lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ. Ở đây có một người đàn
ông bị thần ô uế ám. Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu
lên: “Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết ông là Đấng
Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự
hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ, vì ô uế và
thánh thiện không đội trời chung. và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá
thần ô uế. Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng, lời ra lệnh
đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo. “Câm đi, hãy xuất khỏi người
này !” Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa, bị mất tự do, bị chi
phối và sai khiến như một nô lệ. Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được
thật sự là mình, được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế
giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm, từ không khí, nước uống đến
những sản phẩm nhiễm độc của con người. Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô
nhiễm về tinh thần, bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn, sự trong trắng nơi
trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống
cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin
giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được
phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và
ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
9. “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền”
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà
ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên
Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong
Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời
nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không
như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
-
Uy quyền trong lời nói,
vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và
sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con
người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao
giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà
không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả
của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.
-
Uy quyền trong hành động,
lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa
người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh
của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh
ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời
giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận
Galilê.
Lời
giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng
theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa
Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là
tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự
mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ
vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.
G.
Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của
mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh
sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không
gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man
không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát
máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối
cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai
phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện
của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với
cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ
nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc
và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời
Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu…
Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng
làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con
tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là
tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là
sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi
hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải
một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
10. Một ngày ở Ca-phác-na-um
(Suy niệm của
P. Trần Đình Phan Tiến)
Ca-phác-na-um
là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn
môn đệ đầu tiên. Nói về giao thông, thì Ca-phác-na-um thuận lợi hơn
Giê-ru-sa-lem. Bởi vì, nó nằm gần sát trục lộ chính, trục lộ nầy là chiều dài
của nước Do-thái, vì vậy, nó chạy xuyên xuốt nước Do-thai (song song với chiều
dài Địa Trung Hải). Biển hồ Ti-ber-ri-a nằm ngay giữa trục lộ nầy, chạy dài
xuống Biển Chết (Death Sea). Nơi Chúa Giêsu Giáng Sinh là Bê–lem (nguyên quán
Vua Đa-vít), gần Giê-ru-sa-lem, gần Biển Chết. Nhưng, nơi sinh trưởng của Người
là Na-za-ret, vì thế Người được gọi là “Giêsu Nazaret”. Na-za-ret gần Biển hồ
Ti-ber-ria, vì vậy, Ca-phác-na-um là nơi giảng dạy đầu tiên của Người. Có thể
ví Ca-phác-na-um như Vũng Tàu của Việt Nam, còn Thành Giê-ru-sa-lem như Hà Nội
vậy.
Nhưng,
Chúa Giêsu chỉ đến Ca-phác-na-um có một ngày “… Người vào hội đường giảng dạy.
Thiên hạ sửng sốt về Lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm
quyền, chứ không như các kinh sư” (c 21 -22).
Theo
đó, Tin Mừng hôm nay được chia làm ba phần:
-
Phần thứ nhất: Nói về sự giảng dạy của Chúa Giêsu tại hội đường Ca-phác- na-um
(c 21-22).
Điều
nầy nói lên rằng: Chúa Giêsu đang thực thi sứ mạng của mình. Người là Đấng
Thiên Sai. Lời giảng dạy của Người có sức thu hút người nghe, bởi vì là Lời
chân thật, Lời có sức thu hút, vì là Lời siêu nhiên. Chúng ta thấy một yếu tố
thần học hiện rõ nơi Lời rao giảng của Chúa Giêsu, bởi vì là Lời Hằng Sống theo
Thiên Tính của Người, còn theo nhân tính thì Lời ấy được phát ra từ chính một
Con Người, có sức thu hút người nghe, bởi vì, Lời ấy không phải giảng dạy theo
ý riêng của người rao giảng, mà là theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy ý nghĩa
rõ rệt hiện ra ngay khi Chúa Giêsu rao giảng.Vì Người giảng dạy như Đấng có
thẩm quyền. Điều ấy có nghĩa là giá trị Lời nói của Chúa Giêsu hiện rõ lên.
Nhưng người nghe có đón nhận hay không, và đón nhận như thế nào là tùy thuộc
vào “mảnh đất tâm hồn“ của người đó. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa sự giảng
dạy của Chúa Giêsu và các kinh sư. Họ cũng giảng giải Thánh Kinh, nhưng theo ý
của họ, chứ không theo ý của Thiên Chúa. Vì “họ nói mà không làm”, hoặc làm
theo một cách máy móc, chứ không phát xuất từ tấm lòng.
Đoạn
Tin Mừng hôm nay thật là đoạn Tin Mừng gây ”nhức nhối” cho những ai đang rao
giảng Lời Chúa. Vì, nếu muốn rao giảng như Chúa Giêsu, thì chúng ta phải “xin”
cho có được một tâm hồn như Người. Và rao giảng như một con người tông đồ chân
chính, chứ không rao giảng như một “con buôn”. Vì rao giảng Lời Chúa thì không
phải là một chuyện dễ dàng, vì muốn rao giảng Lời Chúa thì phải sống như Lời
Chúa dạy. Sở dĩ những người kinh sư không làm được như Chúa Giêsu, vì họ không
sống được như Người.
-
Phần thứ hai: (Từ câu 23-26) Chúa Giêsu trừ quỷ.
Chúng
ta thấy, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, là một sự chứng minh cho phần
thứ nhất ở trên. Ngay lập tức, trong hội đường của họ, có người bị quỷ ám, la
lên rằng: “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi liên quan gì đến ông, mà ông đến
phá (tiêu diệt) chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, Ông là Đấng Thánh của Thiên
Chúa” (c 24).
Chúng
ta thấy, thẩm quyền của Chúa Giêsu là như vậy, chính thế lực tà thần phải thốt
lên như vậy, vì phàm nhân không thể thấy được sự siêu phàm từ Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa Giêsu quát mắng nó: “Hãy câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy!” (c 25). Rõ
ràng, Lời của Chúa Giêsu có sức xua tan thần ô uế. Một phép lạ, một sự trừ tà
ngay lập tức được Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta thấy, quyền năng nơi Chúa
Giêsu, lập tức phát ra, nếu Người muốn. Tuy đây là buổi giảng dạy công khai đầu
tiên, nhưng Chúa Giêsu đã bày tỏ Thiên tính uy quyền nơi Người, vì thần ô uế
hiện diện nơi ấy, và nó sợ hãi Người, đồng thời phá rối việc Người giảng dạy.
Qua
đó, chúng ta thấy, việc rao giảng Lời Chúa luôn phải đối phó với việc phá rối
của tà thần. Nhưng, chúng ta đừng sợ, vì sự rao giảng Tin Mừng chân chính, thì
Lời Chúa sẽ phá tan tất cả những thế lực tà thần. Đó là đức tin của chúng ta,
đó là đức tin của Giáo Hội, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
-
Phần thứ ba: Sự kinh ngạc của những người chứng kiến (c 27-28)
Vâng,
mọi người đều kinh ngạc, ai lại không kinh ngạc, bởi vì tất cả đều lạ lùng.
Chúa Giêsu đã bày tỏ sự lạ lùng của Người. Họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là
gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền…” (c 27). Như vậy, câu 27 đã
minh chứng được phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay. Người giảng dạy như Đấng có
thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (c 22).
Rồi,
“lập tức danh tiếng của Người đồn ra khắp nơi, khắp các miền lân cận Ga-li-lê
(c 28). Nhưng, Chúa Giêsu là Người không muốn nổi danh, bởi vì sứ vụ của Người
không phải để được nổi danh, mà là đem ơn “Cứu độ” cho nhân loại. Một điều gì
đó cao cả hơn, ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, xừng đáng hơn sự nổi danh của phàm
nhân.
Khởi
đi từ bài đọc I (Đnl 18, 15-20) hôm nay, minh chứng rằng tại sao Đấng cứu thế
phải mặc nhân tính phàm nhân. Hầu để mang Lời Thiên Chúa qua sự hữu hình của
nhân thế, mà ngày nay chúng at gọi là ”Ngôi Lời”. Vâng, “Ngôi Lời” đã làm
Người, đã trở nên phàm nhân, nhưng, Thiên Tính là Bản Tính Thiên Chúa vẫn hiện
hữu nơi Người. Đó là điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập
thế. Đồng thời đó là ”Nhiệm Vụ tiên tri” của Đấng làm Người.
Bài
đọc II (1Cr 7, 32-35), thánh Phao-lô cho biết ý nghĩa của nhân tính và thiên
tính. Ai có gia đình thì chu toàn phận vụ gia đình. Ai không có gia đình thì
chu toàn phận vụ Thiên sai.
Thánh
vịnh 23 hôm nay, cho chúng ta biết, sự khải hoàn của Đấng Kitô là điều hiển
nhiên. Đấng Kitô là Đấng công minh. Sự trong sạch và tấm lòng không vẩn đục.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế
gian, hầu mang ơn cứu độ đến cho nhân loại qua sứ vụ Thiên Sai, hầu biểu lộ Ngôi
Lời của Thiên Chúa. Xin ban cho phàm nhân biết nhìn nhận và đáp trả, để đón
nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa. Amen.
11. Người trừ quỷ.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh
chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không
biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề
thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành
công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán
giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên
bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng
dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt.
Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh
ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu
ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh
viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng
những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường
ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng
cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh
sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà
cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh
nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.
Thưa
anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường
Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ
cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa
đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu
đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để
trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên
Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc
11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là
Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam
phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi
chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu
Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao
đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu
Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại
sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày
nay?
Dĩ
nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một
bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển
động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên
Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao
trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”.
Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng
cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho
nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết
trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.
Nhưng
tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan
lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng
ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất
Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại
đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa
Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn
kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh
chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng
sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta.
Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta.
Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta
bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng
như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc
hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để
hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng
chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con
người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng
thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi
và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành
ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám
nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong
ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình
vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa
muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa,
tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.
Hôm
nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để
phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ
lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta
có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có
sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện
cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô
trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức
sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và
trong thế giới.
12. Xua đuổi ma quỷ – Arthur Tone.
Một nông dân giàu có nhất trong huyện
và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản
lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị
chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người
ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông:
“Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính
keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo
lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng
y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng
ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám. Thời đại chúng ta có
nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim
ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn
do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật
là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi
nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ
có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự
kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con
người.
Người
hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ
ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con
quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài
hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng
ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp
của riêng mình.
Quỷ
mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ.
Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.
Quỷ
khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi,
phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng
phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất
chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể
nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều
lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và
thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn
thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong
mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức
Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được
thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người.
Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức
Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.
Xin
Chúa chúc lành cho bạn.
13. Hãy xuất khỏi người này
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Một
ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường. Maccô không cho ta biết Đức
Giêsu đã giảng gì. Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách giảng
thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh
sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền. Còn Đức Giêsu giải thích Kinh
Thánh với uy quyền. Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một
cách mới mẻ và đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến,
triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả
vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế
phải chường mặt ra và khiếp sợ. Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất
khỏi người này." Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở. Nó chỉ ra sau
khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Đức
Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ. Ngài khai mở Nước Thiên Chúa
trên mặt đất. Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta
phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ
thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ. Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra
nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh
đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm
rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa
nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ
lèo lái mà không biết.
Kitô
giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ. Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta
xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Quỷ
phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. "Nếu ông sấp mình thờ lạy
tôi, tôi sẽ cho tất cả". Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với
Thiên Chúa!
Chúng
ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều
thứ khác: tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có
những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời
trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào
cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ
ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi
trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó
bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình. Ta không thể làm khác,
không thắng được bản năng và thói quen. Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng
Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy
xuất ra khỏi người này": Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như
vậy. Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì? "Hãy xuất ra khỏi thế
giới này": Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Lời
xin cuối của kinh Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý
Công Giáo, sự dữ ở đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã
chống lại Thiên Chúa, là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không?
Ma quỷ đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
·
Ma
quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm
lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi
nào bị ma quỷ đánh lừa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm
qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà
vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần
ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh
hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã
hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và
biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn
thấy chính bản thân chúng con.
14. Ma quỷ thời đại mới
(Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ
ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm
cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà
còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong
cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên
thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua
mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt
ma quỷ giam hãm.
Đức
Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma
quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào
con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng
ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn
thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống
khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất
phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc
trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người
trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế
công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một
đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn
heo lăn xuống biển chết hết.
Người
gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái,
bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách
satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với
người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người
tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những
người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán
cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ
tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua
những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi
bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế
lực đen tối của chúng.
Cuộc
chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các
Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay,
Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ
không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn
tại trên thế giới.
Có
thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng
đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn.
Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ
bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày
nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài
xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn
cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ
để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò
mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với
bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những
làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam
vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói
kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói
ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu
của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm
nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống
chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp
phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy
tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc,
hưởng thụ, cám dỗ. Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây
chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh,
ích kỷ, dửng dưng.
Tự
sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải
nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta
rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục
thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu
con khỏi mọi sự dữ. Amen.
15. Ma quỷ
Có một bác nông dân rất giàu nhưng
cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia
một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một
đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái
đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy
cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói
lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.
Từ
câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu
xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không
những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó,
hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực
sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn
toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh
thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ
keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con
quỉ kiêu hãnh ở
trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng
cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật
quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con
quỉ mê ăn uống
luôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không
còn biết tiết độ là gì nữa.
Con
quỉ khoái lạc thì
đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng
minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy
nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng
ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa.
Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay
kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong
việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã
đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm
Phục sinh của Ngài.
Hãy
tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi
lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che
như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
16. Ma quỷ
Ma
quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con
người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ
thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền
nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi
Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá
của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật
ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên
sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến
chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang
phụng sự Thiên Chúa.
Vậy
phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó. Con
đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều
người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu
đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm,
đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý
niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người
ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên
dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch
của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần
phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân
phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma
quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là
người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang
vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến
thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết
và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối
đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn
Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.
Nhìn
vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao
nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người
không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ
cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho
mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi
nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của
ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng
từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày
qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan
lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
17. Trong đời
Đoạn
Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần,
tức là ma quỷ. Ma quỷ thế nào? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian
không?
Trước
hết, thiết tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không
phải là một mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma,
theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc
liên hệ gì đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên
Chúa đày xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều
người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma
nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ
xảy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa,
để đương sự nhắn bảo một điều gì đó với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa
trao phó cho đương sự, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia
trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỷ thì sao? Phải công nhận là
có, vì Kinh Thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần
trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như
vậy, quỷ có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự
xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường
như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật
ngã rồi. Đây là một thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước
kia, khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến
ma quỷ như những thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm
chí lại còn nhìn thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt
mức, người ta lại cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên
quan gì với cuộc đời con người tại thế.
Phải
công bình nhận định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma
đuổi quỷ ra khỏi xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn
minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm
tối, quanh co, với bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ
ngự trị, chỉ cần sửa sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người
ta có thể ra đó tình tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt
nhất là ở thành thị, ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có
thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ
mới nhá nhem tối, không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất
là nếu gần đấy có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn
nữa.
Muốn
nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không
chỉ coi thường hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người
ở trần gian này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của
chúng nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần
đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các
cơn cám dỗ để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại
của chúng.
Tuy
nhiên, chúng ta chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả
những gì xấu xa trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ.
Nhưng một điều đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn
cản anh em mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan,
đối thủ hay là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là
Satan, khi ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài
người.
Câu
chuyện thánh Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những
câu chửi rủa mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”,
“quỷ sứ”, “nó ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa
đó thường được áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã
khám phá ra rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ
đen đầu: có thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính
là những người anh em nhân loại của chúng ta.
Như
vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực
tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải
là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế,
nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người.
Chúng ta không dè rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai
muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã
cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi
thế, vấn đề quan trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi
người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương.
Chúng ta không nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước
hết, tự mình đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều
tội lỗi; đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có
thể đem đến cho chúng ta.
18. Quyền năng
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như
là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học
giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên
một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù
ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu
luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin
Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức
độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang
nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết
trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh
nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán
giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của
một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự
mình làm được điều đó”.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã
“làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên
các thính giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn
luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người
khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi
người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như
thế”.
Trong
đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất
nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có
quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay
khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự
mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng
một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế
nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó,
thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là
từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều
này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính
là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một
vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta
không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn
trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người
riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái.
Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do
để nói đúng điều cần phải nói.
Trong
thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của
mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa
vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ
cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời
phê phán độc lập.
Đức
Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người.
Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn
Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng
chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về
một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía
cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng
vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng
nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người
có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của
một người giảng dạy.
Có
một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được.
Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền
này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của
họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự.
Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng
quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một
người phát ngôn mà thôi.
Đức
Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào
khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều
có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống
theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.
19. Quyền năng
Ngày
nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật
đáng chán khi có thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng
quyền năng thực sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của
những kẻ có quyền. Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt
chính sách, nhưng không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu
có nhiều nhân vật của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì
điều gì gây tổn hại đến lòng tin? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào
lời mình đang nói nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi
không tin tưởng, bất kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến
thế nào.
Vậy
thì tính cách của người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều
khuyết điểm, thì lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận
thấy khó mà uống loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ
sét hoặc dơ bẩn. Và khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân
mình, thì có lẽ đây là điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như
sau: “Xin đừng nói nữa. Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá
vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định
mệnh vĩ đại trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời
giảng dạy của Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức
vào thời đó – các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng
mình. Ông ta luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái
lại, Đức Giêsu nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng
nói khác. Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói
của bất cứ chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại.
Người không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người
xuất phát từ đâu? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật:
“Một lời nói sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng
dạy của Người mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một
số câu nói như “Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng
trên núi không thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời
giảng dạy của các kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng
dạy của Đức Giêsu lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số
người giảng dạy chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được
tầm nhìn, cảm hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức
Giêsu xuất phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc
phải lắng nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng
những hành động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời
giảng dạy của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường
như điều này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài
giảng rồi. Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài.
Bầu trời trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một
nơi nào đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm
thanh, ông nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng
không phải vậy, ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn
thấy một vết hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi
xuất phát của nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng
có thể nhìn thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay
đi xa rồi, trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó
quá lớn, để có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo
một cách nói, chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói
một cách lý tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người
ta sẽ lắng nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc
gì đó. Những lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng
thực sự. Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc
bạn làm. Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau
đó, không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong
những lời nói của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng
chỉ lắng nghe mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu
không sống theo sự thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
20. Mặc chúng tôi
Khi
Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế
nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông
đến tiêu diệt chúng tôi?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là
“Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng
đáng được yêu thương hoặc săn sóc”.
Đây
là một tiếng kêu mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người
cho rằng mình bị quỉ dữ chiếm hữu. “Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để
mặc chúng tôi. Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi“. Họ nhận ra rằng sự thay đổi
đó gây đau đớn. Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không.
Nhưng chúng ta biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không
được yêu thương, không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số
không.
Trong
thế giới của chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh
viện tâm thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình
huống đáng tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố
gắng che giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức Giêsu. Người không hề
lảng tránh sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “Hãy để mặc tôi!”. Đức Giêsu
nghe thấy rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho
anh ta.
Người
cảm thấy thật khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những
vấn đề của bản thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết
những vấn đề của mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên
hướng tới sự phục hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của
mình, thì sẽ mở lối cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các
nhà tâm lý học nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn
được chữa trị. Tại sao vậy? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo
theo một quá trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều
đau đớn. Ý tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông
thường, chúng ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng
ta. Chúng ta muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có
thể chúng ta không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì
câu nói “bạn không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng
đau khổ mà không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ
nào được bộc lộ ra.
Vừa khi đứa con trai chào đời, một bà
mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại và nói: “tôi
không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi người tránh sử
dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ lớn lên, trong
niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình thường khác, cho đến
một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu vườn, và đã sử dụng
tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu
chuyện trên tượng trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta
đều tìm cách che giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể
mọi sự đều bình thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không
có gì là bất thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại
là gì cả. Ý tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây
tác hại hơn cả cố gắng giấu giếm.
Khi
chúng ta có can đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực
mới mẻ trở nên sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi
làm cho chúng ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết
thương, nhờ để cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa
lành. Chính trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà
Thiên Chúa chữa lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
21. Giêsu Nagiarét
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là
một người như chúng ta.
Trước
hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây
là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng
này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm
và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét
nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp
đến, Ngài cũng có một gia đình.
Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường
gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng.
Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ
vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm
sống.
Mẹ
Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của
Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết
đến.
Cũng
như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ
gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều
đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang
lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội.
Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có
một gia đình và có một tổ tiên.
Thời
bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những
gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận
được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh.
Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý
nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói
năng như họ. Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con
của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà
Ngài được như thế.
Thánh
Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi
công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi
được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng
Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia
sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả,
có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống
êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất
vưởng:
- Con cáo có
hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có
lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng
chèo qua bên kia bờ hồ. Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế
nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường
ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là
Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian,
cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh
cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương
chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để
kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu,
chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì
kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội
kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.
22. Quyền năng
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào
ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một
hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh
thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai,
điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy
không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma
quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi
đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không
đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo
tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là
mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma
quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt,
ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên
Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ
có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức
Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng
quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự
dữ. Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên:
“Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng
tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ
lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa
tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên
Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại,
chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi
xiềng xích nô lệ.
Là
những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi
đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã
được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ
ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân
phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình
bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại
đánh mất chính mình. Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong
chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông
chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là
những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ
muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài
kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó
chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn
xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…
Đàng
khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với
những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển,
tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không
đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị
ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn
minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương
hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người
tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt
thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh
hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao
vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái
vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm
tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài
không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái
vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái
diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách
đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất
hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của
mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác
và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai
tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ
quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi
chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết
thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức,
đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để
khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có
bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì
Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội
lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá
chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có
tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào
mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được
tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
23. Ma quỷ
Từ
ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm
cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà
còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong
cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên
thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua
mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt
ma quỷ giam hãm.
Đức
Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma
quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào
con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng
ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề, Đức Giêsu đã toàn
thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống
khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất
phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc
trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
-
Người
trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người
xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác,
Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn
bên bờ biển, và cả đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
-
Người
gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh.
Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế,
người bệnh là người sống dưới ách Satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người
bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
-
Người
tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui
tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng
thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc
cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua
những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi
bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế
lực đen tối của chúng.
Cuộc
chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các
tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay,
Người sai chúng ta tiếp bước các tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ
không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn
tại trên thế giới.
Có
thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng
đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn.
Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ
bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày
nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài
xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn
cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ
để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò
mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với
bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những
làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam
vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói
kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói
ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu
của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm
nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống
chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp
phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy
tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc,
hưởng thụ, cám dỗ. Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây
chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh,
ích kỷ, dửng dưng.
Tự
sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải
nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta
rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục
thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu
con khỏi mọi sự dữ. Amen.
24. Suy niệm của Noel Quesson
“THẾ NGHĨA LÀ GÌ? NGƯỜI CÓ UY QUYỀN
BIẾT MẤY?”
Trong
thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết
quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172
cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức
Giêsu Kitô.
5152
cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa
Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều
ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay,
khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm
lạ.
Chúa
Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một
nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết
trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi
thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng
không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng,
đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư,
văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng
phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều
họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật
sĩ” là như thế.
Lời
Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân
Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy
về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về
mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ
thuyết phục người nghe hơn cả.
Là
Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực
tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa
sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ
những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là
những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương
Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện,
chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng
và tân tòng của mình…
Qua
Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn
trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng
con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục
vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.
25. Chú giải của Noel Quesson
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào
thành Ca-phác-na-um.
Đó
là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên
đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn
môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức
Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một
thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con
người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các
môn đệ của Người".
Sau
này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể
Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Máccô
cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây,
chính "Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình
của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um
chính là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở
nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc
đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay
Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước
vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia,
nông dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những
người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo
lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu,
người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế
giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để
diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một
“Ca-phác-na-um"!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường
giảng dạy.
Sau
khi quay chung cả "nhóm", giờ đây Máccô giơ máy quay phim, ghi hình
cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng
Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong
một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô
sắp diễn tả cho ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một
ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động"
đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức
Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4.
Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình
minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc
1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong
ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế
cùng với Đức Giêsu không?
Một
hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu
"trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát". Hội đường vẩn là nơi hội họp
chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề
luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông
nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên
hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng
có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ
trong cùng một câu nói mà Máccô đã ba lần sử dụng từ "didakê",
"giảng dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời
dạy" phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng
định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức
Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình
thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô
không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã
phát biểu nội dung đó qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn... Nước Thiên Chúa đã
đến gần rồi... Anh em phải sám hối... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều
làm cho Máccô quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức
Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa... Người ta "kinh ngạc"
vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài;
nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi
người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong
đợi, bởi vì nó "đúng thực" tận thâm sâu con người!
Một
cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về
Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên
Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn
Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại
đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang
tính quyết liệt... Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên
Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời
nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những
"kinh sư " theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức
Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát
xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên
Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận,
khi ai đó nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống
thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói
"ba hoa chích chòe"... nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn
sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi,
khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin
như thế không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi
có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên
"của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt
tôi" không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một
người bị quỷ ám la lên...
Chúng
ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất
đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Máccô không
ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là
"tiếng la hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu
quát mắng nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh
người ấy, thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân
ước đã 23 lần bàn tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là "thần
xấu', bởi vì thực ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình
dục" như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với
sự "thánh thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô
uế ". "Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của
Thiên Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy
phá" con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con
người "bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người
"bị tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài
nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước
việc "trừ quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa
hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết
sâu xa" cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ
bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây
cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo
diễn phim “Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên
màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ
quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động
của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang
tha hóa họ... Thế giới thay đổi chủ... Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này
ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi:
"ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Thực sự cần phải khám phá ra căn
tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường "Giêsu,
người Na-da -rét", đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh của Thiên
Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một
số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng
như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không
thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên Chúa" được:
thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên
quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét của quỷ".
Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô
hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những
người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù
địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không?
Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác
nào?
Đức
Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này". Từ Hi Lạp được
dùng ở đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa”, “quát mắng".
Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39).
Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua
câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng
ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc
nhiên về "nhân cách" của Đức Giêsu... thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ
bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức
Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích
thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu
là Đấng Thánh của Thiên Chúa", là."Con Thiên Chúa", có thể chỉ
là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một "con
người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu
trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi
người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới
mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng
theo".
-
Đó
là những Lời", một giáo huấn, một sứ điệp... một điều gì "mới
lạ" cho nhân loại.
-
Đó
là những "Dấu chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí
tích... quyền năng của Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội,
chính chúng ta đã được Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích"
này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể... trong
đó Đức Giêsu "nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.
26. Ý nghĩa của một lần trừ quỷ
(Chú giải của
Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tìm
xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật
đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn
từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt
5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức
Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc
4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày
uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã
được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức
Giêsu tại hội đường Caphácnaum.
Caphácnaum
ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả
các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ iv kỷ nguyên
chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ
lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người
đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy,
tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của
vị Tôn sư.
Mc
đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là
hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ
kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng,
loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động,
một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu
nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong
lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.
Đoạn
này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị
thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum),
Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi,
đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường,
tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn
hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ,
vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng
thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao
giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi
những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn
đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở
thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra
(sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do Thái giáo,
trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục
Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi
khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra
mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên
lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ Nạn đã
được hoàn tất.
2.- Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu
giảng dạy (1,21-22):
a)
nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát,
b)
dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;
2) Ca người
bị quỷ ám (1,23-26):
a)
phản ứng của quỷ,
b)
lời nói uy quyền của Đức Giêsu,
c)
kết quả;
3) Về việc
giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28):
a) dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy
quyền,
b) danh tiếng được đồn đi: mọi nơi,
khắp vùng lân cận miền Galilê.
Câu
truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy
quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.
3.- Vài điểm chú giải
-
sửng sốt (22):
dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”.
-
Có một người bị thần ô uế nhập
(c.23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến,
một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin,
tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả;
thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.
-
la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc
đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương
tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản
nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có
việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa
hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12;
2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn,
đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế?”), hoặc là
từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2
V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông
đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng
hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên
liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).
-
Đấng Thánh của Thiên Chúa
(x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một
danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do Thái
giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là
một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan
hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa
hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (HL. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh
thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý
nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia. Ma quỷ cảm nhận sự hiện
diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.
-
Đức Giêsu quát mắng
(quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy Lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39;
8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị)
trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa
là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt
hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời
la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi
người này”.
-
Câm đi
(phimôthêti): Nguyên nghĩa của động từ HL phimoô là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ
bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả
dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).
-
Xuất khỏi: Đứng
trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo
tức khắc.
-
Thần ô uế lay…, thét… (26):
Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không
có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh
(9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở
đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là
bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay.
Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy
rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một
quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức
Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã
khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm
dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ
(“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ
bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và
hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).
-
So sánh với 4,37-41:
Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động
kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn
giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được
xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên
(4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:
|
Trừ
quỷ
|
|
Bão
yên (4,37-41)
|
23
|
Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng
|
37
|
Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập
vào thuyền
|
|
|
38
|
các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
|
24
|
“Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”
(= chúng tôi chết mất)
|
|
“Thầy
chẳng lo gì sao
chúng
ta chết đến nơi rồi”
(= chúng ta/tôi chết mất)
|
25
|
Đức Giêsu quát mắng nó (đe doạ)
nó:
|
39
|
Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển
|
|
“Câm đi và xuất khỏi người này!”
|
|
“Im đi! Câm đi!”
|
26
|
Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất
|
|
Gió liền tắt và biển lặng như tờ
|
|
|
40
|
Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm
sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
|
27
|
Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau:
|
41
|
Các ông hoảng
sợ (kinh ngạc) và nói với nhau:
|
|
“Thế
nghĩa là gì?
|
|
“Vậy
người này là ai?
|
|
Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy
quyền
|
|
|
|
Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và
chúng phải tuân lệnh!
|
|
mà cả đến gió và biển
cũng phải tuân lệnh?
|
Bảng đối
chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:
1. Sự hiện
diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc
biển); thế trận.
2. Đức Giêsu
như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là
hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi).
3. Chiến
thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá
mõm”, “câm”.
4. Cuối cùng
là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân
lệnh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Đức Giêsu giảng dạy (21-22)
Tác
giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa,
họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng
không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy
quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này,
Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận
điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo
huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân
chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn
nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán
cải).
Đức
Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện
chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường
Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe
Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng
đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của
Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội
đường.
*
Ca người bị quỷ ám (23-26)
Các
cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí
quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường
thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mc (1,21-28; 5,1-20;
8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức
Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của
các môn đệ (3,15; 6,7.13).
So
với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta
đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc
1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt
Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài
tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện
Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình
trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị
hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu.
Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ
thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như
thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên
Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong
biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết
rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng
trước chúng.
Kẻ
bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong
nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và
dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức
Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần
giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi,
nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.
Quỷ
tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng
Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả
năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì
đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú
ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô
uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực
của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới
có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải
thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con
người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp
với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến
thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.
*
Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)
Dân
chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với
“giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 - NTT). Đó là vì lời nói của Đức
Giêsu thực hiện được điều Người diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy
quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa
nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa
minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn
bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum
đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.
+ Kết luận
Vậy
ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về
trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi
Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động
kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức
Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn
khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy
và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các
tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và
trừ quỷ.
2.
Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được
hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ
rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạt, chúng
ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?
3.
Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái
vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng
với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa
hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều
Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có
tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng
Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người,
chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?
4.
Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh
xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của
các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng
không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của
Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?
từ khóa tìm kiếm:
NIỀM VUI PHỤC VỤ CHÚA NHẬT IV TN B ĐA MINH BA NGÔI,
CHÚA NHẬT IV TN B THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU , 2014 CHÚA NHẬT IV TN B, CHÚA NHẬT IV TN B THIÊN LAN ,
CHÚA NHẬT IV TN B NIỀM VUI ,
CHÚA NHẬT IV TN B PHỤC VỤ , KINH THÁNH CHÚA NHẬT IV TN B LỜI CHÚA , SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV TN B Share , SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV TN B SINH HOẠT , CHUYỆN CHÚA NHẬT IV TN B CÂU ĐỐ , CẦU NGUYỆN CHÚA NHẬT IV TN B GIÁO LÝ , TIN TUC CHÚA NHẬT IV TN B THE GIOI , View Online CHÚA NHẬT IV TN B, HOI THANH CONG GIAO CHÚA NHẬT IV TN B, TAN UOC CHÚA NHẬT IV TN BCUU UOC , Yeu CHÚA NHẬT IV TN B Viêc HOC HOI THANH KINH ,
Bạn hãy Like hoặc Comment để ủng hộ Niềm vui phục vụ nhé bạn nhé .Chúc bạn có những giây phút thật vui vẻ (^_*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét