CHÚA NHẬT V TN B : | NIỀM VUI PHỤC VỤ

CHÚA NHẬT V TN B :

Thứ Tư, 4 tháng 2, 2015
NGUỒN NĂNG LƯỢNG CHO CÁC HOẠT ĐỘNG
Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ Têrêsa Calcutta, nay là chân phước Têrêsa lại có thể làm được những việc mà nhiều người khác không thể làm được ? Ngay từ sáng sớm cho đến chiều tối, có những ngày quên ăn quên ngủ, Mẹ Têrêsa cùng với các chị em trong Dòng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Calcutta để tìm kiếm những người đau yếu, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có nhiều lần Mẹ đem về nhà những người nằm dưới cống hoặc bị bỏ bê lâu ngày hôi thối, bẩn thỉu, bị mọi người tránh xa. Mẹ ôm những người ấy vào lòng, đem về đặt trên gường của mình để săn sóc. Mẹ giải thích : Vì tôi muốn họ được chết như một con người chứ không như con vật. Khi được hỏi tại sao Mẹ và các chị em của mẹ có thể làm được như thế ? Mẹ trả lời : Một ngày của chúng tôi được bắt đầu từ Thánh lễ. Chính từ Thánh Thể, chúng tôi có nguồn sức mạnh và có nguồn năng lượng cho một ngày làm việc. Các chị em trong Dòng chúng tôi mỗi ngày có ít nhất một giờ bên Thánh Thể Chúa, đó là sức mạnh cho chúng tôi. Cuộc sống thiêng liêng của người tín hữu cần phải được thường xuyên nạp năng lượng thì mới có thể sống và hoạt động tốt được.
Thánh Marcô kể lại một ngày hoạt động đầy ắp công việc của Chúa Giêsu từ sáng đến tối khuya. Buổi sáng, Ngài vào Hội đường Caphacnaum để cùng với mọi người nghe đọc sách thánh và Chúa cùng thường vào Hội đường để giảng dạy giáo lý. Ra khỏi Hội đường, Ngài đã đến nhà của hai ông Simon và Anre. Bà mẹ vợ của ông Simon đang bị sốt nặng, Chúa Giêsu biết bà đang bị bệnh, Ngài không cần hỏi bà điều gì, Ngài cầm tay bà đỡ dậy và bà khỏi bệnh. Thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu đi đến đâu, thì quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được lan đến đó. Quyền năng của Ngài khiến ma quỷ và tội lỗi phải sợ hãi chạy xa.
Buổi chiều, Chúa Giêsu tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin Mừng và chữa lành tất cả mọi người bị đau ốm hay bị quỷ ám. Cả thành kéo đến chật cửa nhà. Chúa Giêsu lại tiếp tục chữa lành cho họ. Chúa Giêsu không dùng các phép lạ để thu hút dân chúng, nhưng những ai tin vào Ngài, đi theo Ngài, thì sẽ được chứng kiến các phép lạ Chúa làm và qua các phép lạ đó, mọi người nhận ra Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế.
Có lẽ điều Thánh Marcô muốn nhắm đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay đó là : Chúa Giêsu đã làm việc vất vả như thế vì mục đích gì và Ngài kín múc nguồn năng lượng từ đâu cho một ngày hoạt động như thế ? Tin Mừng kể tiếp : Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã dậy, đi đến một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Nếu như sau một ngày hoạt động, con người cần những lúc nghỉ ngơi, cần được nạp lại năng lượng thế nào, thì Chúa Giêsu cũng vậy. Nguồn năng lượng cho mọi hoạt động của Chúa Giêsu chính là những giờ phút cầu nguyện, gặp gỡ, tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa Cha.
Khởi đầu ngày mới bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu tìm kiếm và nhận ra thánh ý Chúa Cha muốn gì cho đời sống hoạt động tông đồ của Ngài. Ngài nhận ra con đường mà Chúa Cha muốn Ngài đi và những công việc mà Chúa Cha muốn Ngài thực hiện. Chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ với Chúa Cha, Chúa Giêsu như nạp thêm năng lượng cho đời tông đồ của Ngài. Kết thúc một ngày làm việc bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu lại đặt trọn công việc đã làm và cả ngày sống của mình cho Thiên Chúa Cha. Câu chuyện Tin Mừng cho thấy : Ông Simon và các môn đệ đi tìm Chúa Giêsu. Khi thấy Ngài, họ thưa : Mọi người đang tìm Thầy. Chúa Giêsu trả lời : Chúng ta còn phải đi đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Như thế, việc gặp gỡ với Thiên Chúa giúp Chúa Giêsu không bị trói buộc vào những thành công hay tìm kiếm những lời khen cùng sự ngưỡng mộ, nhưng giúp Ngài không quên sứ mạng chính của mình là ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân.
Cuộc sống của con người không ai là không phải vất vả làm việc để đạt được kết quả hoặc mục đích cho cuộc sống. Tuy nhiên, mỗi người làm việc trong thái độ nào mới là quan trọng. Bài đọc một sách Gióp có một cái nhìn khá bi quan về thân phận con người. Ông cho rằng cuộc sống con người nơi dương thế chẳng khác nào một cuộc khổ dịch lao nhọc. Con người từ sáng tới tối phải lao động vất vả hết ngày này qua ngày khác dường như không chấm dứt. Bóng đêm đổ xuống thì mong trời sáng để đi làm, khi ngày đến thì mong tối về được nghỉ ngơi. Tác giả cũng đã phải kêu lên : Ngày đời tôi thấm thoát tựa thoi đưa và chấm dứt không một tia hy vọng. …Cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.
Nếu người tín hữu cũng lao vào công việc như tham gia vào chiếc đu quay, hết sáng đi làm, rồi tối về ngủ, sáng mai lại đi làm, như sách Gióp đã nói thì quả thật cuộc sống như thế quá tẻ nhạt và mất ý nghĩa. Để cho cuộc sống và công việc của chúng ta có ý nghĩa, chúng ta cần phải có những khoảng dừng để nạp năng lượng, hồi phục tinh thần và thể xác.
Thiên Chúa cho chúng ta có mặt ở trần gian này không phải là một cái máy đã được lập trình, cũng không phải là những con thú sống theo bản năng sáng đi săn mồi, tối về hang, nhưng  chúng ta được hiện diện trên trần gian này với tư cách là những người con của Thiên Chúa, được Chúa yêu thương trao cho chúng ta cai quản và làm chủ vũ trụ này. Vì thế, chúng ta cần phải sống và làm việc trong tư cách và phẩm giá ấy.
Vì là con, chúng ta phải sống và làm việc như những người được Chúa tín nhiệm, đồng thời làm việc trong sự hiện diện và dưới cái nhìn của Chúa. Đừng làm việc như những kẻ nô lệ cắm mặt vào công việc mà quên phẩm giá và ơn gọi của mình là những con người tự do. Làm việc trong sự hiện diện của Chúa giống như đứa con được làm việc bên cha mình và làm việc của cha mình. Vì thế, mọi công việc, mọi hoạt động của chúng ta được làm với tâm tình yêu mến và biết ơn.
Là người cai quản - Thiên Chúa đã tín nhiệm trao vũ trụ này cho chúng ta, Ngài cũng trao cho chúng ta gia đình và các trách nhiệm khác nhau. Hãy làm việc như một quản gia trung tín, tức là làm việc theo đúng ý Thiên Chúa. Để biết ý của Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta nơi gia đình, nơi cộng đoàn, hãy noi gương Chúa Giêsu, hỏi ý kiến Thiên Chúa qua việc cầu nguyện và thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy tập thói quen bắt đầu ngày mới bằng việc phó dâng công việc và mọi toan tính cho Chúa ; và khi chiều về, mọi người cùng nhau xum họp để nhìn lại một ngày trôi qua và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa. Hãy làm cho cuộc sống của mình, của gia đình, xã hội và làm cho môi trường sống tốt đẹp hơn. Thiên Chúa sẽ biến kết quả công việc thành của lễ hy sinh mang lại ơn cứu độ cho bản thân và cho mọi người.
Ngoài những việc bổn phận hàng ngày, là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta còn phải là những người thực thi công việc loan báo Tin Mừng, giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Đây là một nhiệm vụ mà chúng ta không thể  thoái thác. Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã chia sẻ ý tưởng này : Thưa anh em, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tôi tự hào, mà đó là điều bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như tôi tự ý làm việc ấy thì tôi được thưởng công, nhưng đây là một bổn phận Thiên Chúa trao phó, nên tôi không thể không làm.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng : Tôi bận rộn từ sáng đến tối, tôi vất vả để kiếm cơm áo cho gia đình, còn thì giờ đâu tôi thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng ? Thưa - việc sống và loan báo Tin Mừng không phải là việc làm tăng ca ngoài giờ mà là một công việc đan xem vào mọi nhịp sống mỗi ngày của chúng ta. Không phải chúng ta chỉ loan báo Chúa Kitô sau khi chúng ta đã xong việc của gia đình ; trái lại, chúng ta làm tất cả công việc thường ngày với lòng tin tưởng, yêu mến, gắn bó với Thiên Chúa và biết ơn Thiên Chúa thì tất cả các công việc, dù nhỏ bé cũng sẽ trở thành những công việc của Chúa và là công việc loan báo Tin Mừng của Chúa.
Hơn thế nữa, việc giới thiệu về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho người bên cạnh còn là một đòi hỏi, một thúc bách cho tất cả mỗi chúng ta. Chúa không muốn cho các tông đồ và chúng ta dừng chân ngơi nghỉ hoặc bằng lòng về một vài công việc đã thực hiện được, nhưng Chúa muốn chúng ta cần phải liên tục lên đường đến với nhiều anh chị em khác nữa, để qua sự hiện diện, qua đời sống, qua việc làm của chúng ta, nhiều anh chị em khác sẽ được đón nhận Tin Mừng của Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu, thường xuyên gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, để đón nhận được nguồn năng lượng và sức mạnh cho mỗi ngày sống của chúng ta. Amen.

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí – Gp. Xuân Lộc

LƯƠNG Y TỪ MẪU


Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng.  Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.

Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ.”

Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê.”  Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi.  Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ?  Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò.  Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.

Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?

Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám.  Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”  Với triết gia, đau khổ là một vấn đề.  Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ:  Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình.  Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ.  Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.

Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài.  Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.

Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát.  Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội.  Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại.  Bởi vì Ngài đã không những chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống.  Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.  Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu.  Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.

Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ.  Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng – Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.

Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó.  Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ.  Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ.  Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác.  Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ.  Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).

Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật.  Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ.  Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.

Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.

Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì.  Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ.  Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự.  Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ.  Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta.  Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.

Trích trong "Niềm Vui Chia Sẻ"
TỪ THÁN PHỤC ĐẾN ĐỨC TIN
(Máccô 1,29-39 – CN V TN - B)

                                                                                               

1.- Ngữ cảnh
Đoạn này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.

2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);
2) Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).

3.- Vài điểm chú giải
- Vừa ra khỏi… (euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã có cả trong Mc  Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời) hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết này thành một đề tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.
- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp yên: “Vậy người này là ai?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường của họ”. Ở xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6). Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc 4,16-30).
- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt  Lc: hai tác giả này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.
- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.
- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ nữ tính của động từ Hy Lạp pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15 dùng danh từ HL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).
Theo viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi những nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ này.
- Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến mất; bà trỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô)  Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”, anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để nói về sự sống lại.
- bà phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.
Riêng Mt lại viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x. Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).
- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị-hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.
- mọi kẻ ốm (32):  Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.
- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).
- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).
- không cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.
Như vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.
- Người đi cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.
- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.

4.- Ý nghĩa của bản văn
* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn ( 29-31)
Tại nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự đượclành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như  Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).

* Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)
Hành vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.     

* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)
 Đức Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.

+ Kết luận
Tuy các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại, ngài rất đòi hỏi. Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh  rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.
Đoạn Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.

5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của Người được chứng thực bằng việc làm của Người.
2. Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúađược củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.
3. Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).  
4. Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Không được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.
Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông với chính con” (Guigues le Chartreux, 1083-1136).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm





Bạn hãy Like hoặc Comment để ủng hộ Niềm vui phục vụ nhé bạn nhé .Chúc bạn có những giây phút thật vui vẻ (^_*)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

 

Bai đang học

PHUNG VU GIO KINH

GÍAO HỘI

HỘI ĐỒNG GIÁM MUC

HỘI DONG ĐAMINH TAM HIỆP

SÁCH KINH THÁNH TIẾNG ANH

LOI CHUA TIENG ANH MOI NGAY

ĐÀI CHÂN LÝ

THẮC MẮC VỀ TÔN GIÁO

NHAC LÝ GUITA

SỨC KHỎE

TẢI VIDEO NHANH KHÔNG CẦN PHẦN MỀM

LUYỆN THI TIẾNG ANH

GIẢI TRÍ

HOC ĐÀN

Đăng Ký

Tên

Email *

Thông báo *

Hỗ Trợ Online

Tổng số lượt xem

Lên đầu trang Xuống cuối trang