THIÊN CHÚA QUY TỤ
VÀ CHĂM SÓC DÂN NGƯỜI
Trong dịp dự lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Thánh Hóa, chúng tôi được
nghe kể về hoàn cảnh hết sức khó khăn của giáo phận này. Sau năm 1954 phần lớn
các linh mục và giáo dân di cư vào miền Nam. Con số những người còn ở lại rất
ít, số linh mục chỉ chừng mười cha. Với tình hình như thế, các cơ sở tôn giáo bị
lấn chiếm, các sinh hoạt tôn giáo bị ngưng trệ, dân chúng sống trong sợ hãi vì
tù đày, nên tản mác khắp nơi. Đức Cha Phêrô Phạm Tần lúc đó được Tòa Thánh bổ
nhiệm làm giám mục từ năm 1960, nhưng vì bị chính quyền quản thúc nên cho đến
năm 1975 Ngài mới được tấn phong Giám mục. Vì không thường xuyên có linh mục và
thánh lễ, vì hoàn cảnh xã hội, đời sống đức tin mai một, có nhiều người được rửa
tội nhưng không biết gì về đạo và các bí tích. Cho đến nay, đoàn chiên Giáo phận
Thanh Hóa đã được quy tụ lại và phục hồi sau những ngày bị tản mác, nhưng vẫn
còn mười xứ đạo chưa phục hồi lại được, vì mất nhà thờ, vì sự khó khăn của
chính quyền địa phương. Tình hình đất nước, xã hội có phần dễ chịu hơn, các chủ
chăn được liên tục sai đến với đoàn chiên Thanh Hóa, giúp cho giáo phận này
đang từng bước hồi sinh và lớn mạnh.
Thưa quý OBACE, Chính Thiên Chúa là chủ đoàn chiên, Ngài không nỡ để cho
đoàn chiên của mình bị bơ vơ tản lạc. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã chạnh lòng
thương trước cảnh nghèo đói, thiếu thốn, bơ vơ, Ngài quy tụ họ lại và chăm sóc
cho đoàn chiên mình. Thiên Chúa còn liên tục sai nhiều chủ chăn đến với đoàn
chiên, để những mục tử này nhân danh Thiên Chúa yêu thương phục vụ và hướng dẫn
đoàn chiên đi theo con đường Chúa muốn.
Thời cựu ước, Israel là đoàn chiên của Chúa, được Chúa yêu thương chăm
sóc. Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh để bảo vệ và dẫn dắt Israel khỏi cảnh
nô lệ của Ai Cập và đưa họ vào đất hứa. Chúa đã đặt lên trong Israel những người thay
mặt Chúa để hướng dẫn dân Chúa. Tuy nhiên, những người này đã không chu toàn
trách nhiệm. Họ để cho đoàn chiên Israel thường xuyên bị lôi kéo bởi lối sống dễ
dãi, cúng bái các thần linh của dân ngoại. Các đế quốc chung quanh đến đánh phá
và bắt dân Israel phải đi lưu đày bên Babylon. Từ Babylon, Thiên Chúa lại quy tụ
Israel và dẫn họ trở về. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay, Thiên Chúa đã lên án
các mục tử không chu toàn trách nhiệm khiến cho đàn chiên tản mác: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên Ta phải
tán mác; Các ngươi xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng. Ta sẽ để ý đến hành vi
của các ngươi và trừng phạt các ngươi”.
Cũng qua Giêrêmia, Thiên Chúa hứa sẽ quy tụ đoàn chiên Israel sau thời kỳ
bị phân tán, sẽ phục hồi đoàn chiên và làm cho đoàn chiên nảy nở và gia tăng.
Hơn nữa, Thiên Chúa còn hứa ban cho đoàn chiên các mục tử để lãnh đạo, dẫn dắt chiên
đi theo con đường của Chúa và hết lòng xả thân để bênh vực, bảo vệ đàn chiên
khi bị tấn công. Từ đó, chiên không còn phải sợ hãi, không bị tán loạn và không
bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn này của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm qua con người và
cuộc đời của Chúa Giêsu.
Tin Mừng Marcô cho thấy, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tổ phụ
và các tiên tri mong đợi. Ngài chính là vị mục tử Thiên Chúa sai đến để cứu
thoát nhân loại và dẫn đưa đoàn chiên nhân loại đến đồng cỏ Nước Trời. Chúa
Giêsu chính là vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã chạnh lòng thương
trước cảnh đói khổ cả thể xác và tinh thần của dân chúng. Câu chuyện hôm nay
cho thấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một ngày đầy ắp công việc giảng dạy và
phục vụ đám đông dân chúng đang đi theo Ngài. Họ quy tụ quanh Chúa Giêsu để được
nghe giảng dạy, để được yêu thương chăm sóc, chữa lành các đau khổ thể xác và
tâm hồn. Chúa Giêsu rất cảm thông với sự vất vả của các tông đồ, Chúa quan tâm
đến các ông là những cộng tác viên của Ngài. Thấy các ông quá vất vả, Chúa đã đề
nghị các ông: “Các con hãy tìm nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thánh Marcô cho biết các ông bận rộn đến độ
không có giờ ăn và giờ nghỉ.
Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền ra đi. Thấy vậy, dân chúng đi bộ
vòng bờ hồ đến nơi trước các Ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người
rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Người
bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày phục vụ đám đông, dù
nhu cầu nghỉ ngơi một chút là chính đáng, nhưng khi thấy đám đông như đoàn
chiên bơ vơ, Chúa Giêsu lại tiếp tục phục vụ họ. Ngài không quan tâm đến bản
thân và việc nghỉ ngơi, nhưng Ngài chạnh lòng thương trước sự đói khát cả tinh
thần lẫn vật chất của họ. Quả thật, dân Do Thái lúc đó như một đoàn chiên không
người hướng dẫn. Các luật sĩ và các thượng tế là những người lãnh đạo trong
dân, họ có bổn phận chỉ cho dân biết sống theo lề luật của Thiên Chúa, nhưng những
người này đã không chu toàn nhiệm vụ. Các vị lãnh đạo Do Thái lúc đó chỉ biết
tìm kiếm lợi ích cho bản thân, họ bị lôi cuốn vào của cải vật chất và lối sống
hình thức bên ngoài, bỏ bê dân chúng.
Thánh Marcô dùng một câu ngắn gọn để diễn tả tấm lòng của vị mục tử
Giêsu: “Đức Giêsu trông thấy đám đông thì
chạnh lòng thương”. Ngài đến với nhân loại bằng tấm lòng chạnh thương. Cả
cuộc đời của chúa Giêsu là tìm kiếm những người tội lỗi đưa họ trở về với Thiên
Chúa, chữa lành những tâm hồn đau yếu và băng bó, an ủi những tâm hồn bị thương
tích. Chúa Giêsu chăm sóc cho con người như người mẹ chăm lo cho con cái. Ngài
chỉ cho mọi người biết sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và dẫn mọi người tiến về
quê trời. Đức Giêsu không chỉ chăm lo cho đoàn chiên Do Thái, nhưng thánh
Phaolô cho biết, Chúa Giêsu đã liên kết tất cả chúng ta nên một nhờ cái chết và
sự sống lại của Người. Đức Giêsu đã phá đổ bức tường ngăn cách, nhờ cái chết và
sự sống lại, Ngài liên kết muôn dân nên một. Trước kia anh em là những người ở
xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô anh em đã trở nên những
người ở gần.
Thưa quý OBACE, Thiên Chúa hằng yêu thương, quy tụ, dẫn dắt và bảo vệ
chúng ta là đoàn chiên của Người. Chúng ta tạ ơn Chúa, vì dù khó khăn từ bên
ngoài vẫn còn, nhưng Chúa vẫn cho chúng ta được quy tụ với nhau để thờ phượng
Chúa. Qua Giáo Hội, Chúa vẫn luôn chăm sóc yêu thương ta nuôi dưỡng ta bằng
Thánh Thể của Chúa và hướng dẫn ta bằng Lời của Ngài.
Việt Nam được coi là xã hội cộng sản, vô thần, đời sống tâm linh không được
coi trọng. Từ đó, xã hội đang tạo ra những khoảng trống tâm linh trong đời sống.
Trong khi đó, nhu cầu tôn giáo, tâm linh là một nhu cầu không thể thiếu của con
người, dù là người sơ khai hoặc người văn minh hiện đại. Để bù đắp cho sự thiếu
hụt trong đời sống tâm linh của người dân, người ta đã cố tình tạo ra những thứ
thần linh. Họ tôn ông này bà nọ lên như thể là những vị thần, họ lập đền thờ
cho dân thờ cúng, tạo ra những giai thoại cho dân chúng học hỏi tìm hiểu về những
nhân vật đó. Bên cạnh việc tạo ra thần linh, những người quản lý xã hội dường
như đang khuyến khích hoặc làm ngơ để cho các hình thức tín ngưỡng dân gian được
phục hồi. Hàng năm tại Việt nam có đến 8 ngàn lễ hội, trong đó có những lễ hội
mang tính bạo lực, dung tục. Vì sống trong tình trạng vô thần, con người cảm thấy
mình chơi vơi, nên dẫn đến việc tin kiêng, cúng bái vớ vẩn, thêu dệt nên huyền
thoại để tin kiêng. Ví dụ: Hàng ngàn người cúng bái, cắm nhang cho hai con rắn
nằm trên ngôi mộ.
Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta có được trái tim và lòng trắc ẩn của
Chúa Giêsu để chúng ta cũng biết chạnh thương khi nhiều người chung quanh chúng
ta chưa được biết Chúa. Họ chưa được ánh sáng Tin Mừng dẫn lối nên đã phải sống
và bước đi trong tối tăm mù mờ như vậy. Xin cho mỗi người Công Giáo biết nhiệt
tâm giới thiệu Chúa và Tin Mừng cho anh em, đưa nhiều anh chị em chung quanh đến
với Chúa, để họ cũng được quy tụ với chúng ta mà ca tụng Chúa.
Xin cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên đất nước chúng ta đạt nhiều kết
quả, cho có nhiều người biết mở tâm hồn đón nhận hạt giống Tin Mừng và Đức
Giêsu là Thầy là mục tử hằng yêu thương dẫn lối chúng ta đến đồng cỏ hạnh phúc
nước trời. Amen.
Linh mục Giuse Đỗ
Đức Trí – GP Xuân Lộc
Bạn hãy Like hoặc Comment để ủng hộ Niềm vui phục vụ nhé bạn nhé .Chúc bạn có những giây phút thật vui vẻ (^_*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét